Lang Hoài Hữu Ngọc

Chương 3





Hôm ấy ta xui xẻo, chẳng tìm được việc gì cả, mãi tới buổi trưa mới thấy một hiệu sách kiếm người chép sách.

Chép hết mười tờ mới được trả một văn tiền, nhưng người ở hiệu sách nói yêu cầu không cao, chữ viết ngay ngắn là được.

Lòng ta tức khắc rục rịch, biết rõ trong bụng chẳng có bao nhiêu chữ nghĩa, nhưng mà cuối cùng vẫn vào.

Trong hiệu sách mười mấy người ngồi đen kịt, đều đang vùi đầu chép sách, chỉ có ta là vò đầu bứt tai liên tục.

Ta đã quá xem trọng bản thân mình rồi. Tuy rằng Đại Lang từng dạy chữ cho ta, nhưng trên thực tế chữ ta xiêu xiêu vẹo vẹo, động tới một vài chữ khó ít dùng là chúng ta lại trơ mắt nhìn nhau, nó không quen ta, ta cũng không biết nó.

Bên cạnh ta là một thanh niên mặc bộ áo vải màu nâu đang nghiêm túc chép lại sách. Ta nhịn không được, liếc nhìn về phía hắn. Chữ hắn cũng đẹp như chữ của Đại Lang, từng nét chữ tựa như nước chảy mây trôi, sôi nổi hiện trên trang giấy.

Ta buồn bã nói…

“Huynh viết chữ đẹp thật đấy.”

Thanh niên nọ ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt đôi bên bất chợt giao nhau, mặt hắn đỏ lựng.

Ta lúc này mới ý thức được mình đã quá mức đường đột, vội lên tiếng trước: “Xin lỗi nhé, ta nói bừa ấy mà. Ta chỉ định hỏi huynh một chút, chữ này có nghĩa gì vậy?”

Ta chỉ lên một chữ trên sách mẫu. Thanh niên thoáng sửng sốt, sau đó nói: “Đây là chữ xung, hộc phi cử vạn lý, nhất phi xung hạo thương(1), ý là bay thẳng.”

(1) Hai câu thơ trong bài thơ “Tặng Vô Khiêu Kinh Châu” của Đỗ Chí (tể tướng nước Tần thời Chiến Quốc), nói về hoài bão. Dịch nghĩa: Thiên nga bay vạn dặm, bay thẳng đến trời xanh.

Giọng hắn ta thật trong trẻo, cũng rất dễ nghe, ta nhịn không được lại hỏi: “Ta thấy mọi người đều chép cùng một nội dung, sao hiệu sách lại cần sao chép nhiều như vậy?”

Thanh niên nhìn quanh bốn phía, hạ giọng nói: “Đây là tập sách mới của Khang Vương điện hạ trong kinh, rất phổ biến ở kinh thành. Các châu phủ giờ đang tranh nhau biểu hiện, muốn gây ấn tượng trước mặt Khang Vương điện hạ, hiệu sách cũng chỉ là muốn làm bộ cho quận Thao Châu xem, kỳ thực không thể bán được nhiều bản như vậy.”

“À à.” Ta yên tâm ngồi về chỗ, cười với hắn: “Đa tạ.”

Thanh niên thư sinh da mặt mỏng, vội nói: “Cô nương không cần khách khí.”

Ta sinh ra đúng là không phải để kiếm tiền theo cách này. Người khác hạ bút, loáng cái đã xong một quyển, còn ta vẫn đang căng da đầu lên chép trang thứ năm.

Cuối cùng thực sự chịu không nổi nữa, bụng ta sôi lên sùng sục.

Giữa hiệu sách yên tĩnh, tiếng bụng ta réo nghe rất rõ ràng. Ta xấu hổ không dám ngẩng mặt nhưng vẫn ra vẻ bình tĩnh, tiếp tục chép sách.

Chẳng bao lâu sau, một bàn tay đã đột ngột xuất hiện cạnh ta, trên tay là một chiếc khăn sạch sẽ, bên trong có đặt một chiếc bánh hấp.

Là thanh niên thư sinh kia.

Ta ngẩng đầu nhìn hắn, hắn bất ngờ nói: “Nếu như cô nương không chê thì có thể ăn lót dạ một chút.”

Khi đói cồn cào ruột gan thì ai chê gì cơ chứ.

Mặt ta cũng hơi ửng hồng. Cuối cùng cơn đói đã chiến thắng nỗi ngượng nghịu, ta duỗi tay ra, cầm lấy chiếc bánh hắn đưa.

“Cảm ơn huynh nhé, ta đói quá rồi, không khách sáo nữa đâu.”

Ngày ấy, chưởng quầy hiệu sách nhìn mười tờ giấy ta miễn cưỡng chép xong, cực kỳ không tình nguyện mà cho ta một văn tiền.

Mà ta, để kiếm được một văn tiền này, không chỉ có miệng run lên mà tay cũng run lẩy bẩy.

Nửa tháng nữa, hẳn là Bùi nhị thúc sẽ gửi tiền về nhà.

Hắn tham gia quân ngũ ở ngoài biên cương, là lính trung đẳng, một ngày được bảy mươi văn tiền, quân lương cả tháng là hai lượng mốt.

Nghĩ đến đây, ta lại tới nha môn huyện, tìm được nha dịch Triệu đại thúc, mặt dày hỏi vay một quan tiền của thúc ấy.



“Ta nể tình cha chồng cháu nên mới cho cháu mượn tiền, nhưng cháu nhớ phải trả đấy, ta sống cũng không dễ dàng, trong nhà còn một khuê nữ bị què chân nữa.”

“Triệu thúc yên tâm, cháu nhất định sẽ trả, Tiết Ngọc là người thủ tín.”



Hai mươi ngày sau, Bùi Nhị Lang cuối cùng cũng gửi về bốn lượng bạc.

Lúc tiếp nhận bạc từ tay quân sai dịch trạm, ta suýt nữa rớt nước mắt.

Ta mua một con gà quay cùng một miếng thịt nướng tương ở huyện, về nhà thái ra rồi bày lên đĩa. Lúc bỏ thịt vào trong miệng, Tiểu Đào òa khóc…

“A a a, thơm quá! Lưỡi muội cũng thơm nức rồi! Cảm tạ nhị ca của muội! Cảm tạ mười tám đời tổ tông nhà huynh ấy!”



Trong tay có tiền, ta không lên huyện tìm việc làm nữa mà mày mò cái cối xay nước cũ vứt chỏng chơ ở góc sân.

Thớt đá ở trên được treo lên bởi giá đỡ, thớt đá ở dưới gắn với trục quay, chuyển động bằng sức nước, dùng để xay nhỏ ngũ cốc.