Tương Tư không khỏi chau mày.
Ánh mắt lão già như điện chớp, lướt qua mặt nàng một lượt, khàn giọng cười cười nói: “Vị cô nương này có điều gì nghi vấn?”
Tương Tư ngẩn ra giây lát, ấp úng nói: “Tôi ...”
Nàng có che giấu nỗi hoảng loạn trong lòng, rồi gượng cười nói tiếp: “Tiểu nữ chỉ muốn hỏi lão nhân gia này đã bao nhiêu tuổi?”
Lão già cười đáp: “Không biết cô nương hỏi kiếp trước hay kiếp này vậy?”
Tương Tư lặp lại: “Kiếp trước? Kiếp này?”
Lão già cười cười: “Nếu nhớ không lầm, hai năm trước, lúc chết đi lão vừa chẵn bảy mươi tám tuổi. Còn nếu hỏi kiếp này thì lão mới sinh ra trong đất chưa được một canh giờ.”
Không ngờ lão già lại đáp thẳng thắn như vậy, Tương Tư tức khắc á khẩu không nói được gì. Nàng đương nhiên không tin chuyện người chết có thể sống lại, có lẽ trong thiên hạ này đúng là có một thứ dị thuật, có thể khiến người ta chết giả trong hai năm, rồi thức tỉnh trở lại. Khô Thiền Đại Pháp của Phật môn, Quy Tức Thần Công của Tây Vực đều là như vậy, chỉ là không thể chôn sâu xuống đất mà thôi.
Trác Vương Tôn mỉm cười nói: “Trong Sơn Hải Kinh có Vô Khải quốc, người ở đây ở hang ăn đất, chết rồi chôn đi, nhưng tâm tạng không bị thối rữa, chết một trăm hai mươi năm sau lại phục sinh. Lão nhân gia có thể phục sinh sau hai năm , cũng là hơn xa người xưa rồi.”
Lão già cơ hồ như cực kỳ vui vẻ, cười lớn nói: “Mấy vị đường xa tới đây, vậy là quý khách của bản tộc rồi. Để Man Tuấn dẫn mấy trai tráng trong thôn vào rừng bắt ít chim thú, Man Di làm mấy món ăn đạm bạc để mấy vị đây tẩy trần.”
Trác Vương Tôn cũng không cảm tạ, mấy người cùng đi xuống nhà đất. Vào trong rồi mới phát hiện loại nhà dưới đất này không hề u ám ẩm ướt như trong tưởng tượng của họ, cả căn nhà đều trải đầy một lớp đất khô dày, chất đất mềm mại nhẵn mịn, so với thảm bình thường còn dễ chịu hơn rất nhiều.
Tường đất còn có mấy lỗ thông hơi, trên dưới đều lắp một tấm kính đồng, có thể phản chiếu cảnh vật trên mặt đất vào trong phòng, cũng có thể coi như một loại cửa sổ đặc biệt.
Gian nhà đất hơi nhỏ hẹp, nhưng dụng cụ bên trong đều dùng đất nung thành, thấp nhỏ nhưng tinh xảo dị thường. Phảng phất như đem một gian phòng lớn thu nhỏ lại vậy, chẳng hề có cảm giác chật chội.
Mấy người liền ngồi xuống bên chiếc bàn đất. Trong lúc trò chuyện, mấy người biết được bộ tộc của lão già đời đời sống trong rừng sâu. Kể từ khi lão hiểu chuyện, bộ tộc đã có thể sống lại sau khi chết. Người chết đi, thân nhân mang thi thế bọc trong bùn đất, chôn ở gò cao, mỗi ngày đều lên gò tưới nước cúng tế. Hai năm sau, tế sư trong thôn sẽ dùng một nghi thức đặc thù để gọi người đó tỉnh lại. Sau đó người này sẽ từ từ khôi phục lại hình dạng thuở thiếu niên, có thể ăn uống lấy nhau, cho đến khi chết đi lần nữa.
Vì vậy người trong thôn làng này căn bản không có khái niệm về tuổi tác, cái gọi là cao niên trưởng lão, chẳng qua chỉ là những giai đoạn khác nhau trong sự tuần hoàn không ngừng nghỉ của sinh mạng mà thôi.
Tương Tư đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, nói: “Vậy thì hai người chúng tôi vừa thấy không phải là con trai và con dâu lão nhân gia?”
Lão già cười lớn nói: "Lão cũng muốn có con lắm, nhưng mà không thể được rồi.”
Thần sắc lão già trở nên âm u bất định, nói tiếp: “Tằng tổ phụ của lão trong một dịp tình cờ đã lĩnh ngộ được bí quyết bất tử, trở thành anh hùng trong lịch sử của toàn bộ tộc. Nhưng cũng từ thời khắc đó trở đi, chúng tôi cũng mất đi khả năng sinh sản đời sau.”
Lão thở dài khe khẽ: “Còn hai người đó, dựa vào tộc phổ thì chính là thái tằng tổ phụ và tằng tổ mẫu của lão.”
(tằng tổ phụ - cụ nội, thái tằng tổ phụ - bố của cụ nội, tằng tổ mẫu – vợ cụ nội)
Bộ Tiểu Loan đột nhiên xen miệng vào: “Nếu không thể sinh con, vậy tại sao còn dựng vợ gả chồng nữa?"
Lão nhân ngây người, rồi tiếp tục cười nói: “Có thể chỉ là bởi vì chúng tôi đều rất cô đơn. Trong lời nói cơ hồ toát lên một chút thê lương.
Bộ Tiểu Loạn lại hỏi: “Vậy vợ của ông đâu? Chắc ông cũng có một người vợ chứ?”
Giọng nói của lão già trầm xuống: “Từ nhiều năm trước có một người, nhưng bà ấy chết rồi. Được an táng ở trong Phù Dung trạch phía Bắc thôn.”
Bộ Tiểu Loan tò mò: “Vậy sao không chôn bà ấy xuống để rối sống lại?”
Trác Vương Tôn trầm giọng nói: “Tiểu Loan!”
Lão già tỏ vẻ thương cảm, lắc đầu đáp: “Không sống lại nối. Bà ấy ...”
Lão đột nhiên ho lên khù khụ, thân thể còm cõi dường như co rúm cả lại.
Tương Tư áy náy nói: “Tiểu Loan còn nhỏ, có chỗ nào mạo phạm... ”
Lão già nhỏ nhẹ nói: “Đã là chuyện từ lâu lắm rồi.”
Ngoài cửa đột nhiên có tiếng ồn ào, rất nhiều dân làng đang thất thanh gào khóc. Sắc mặt lão già khẽ biến đổi, vội vàng nói một tiếng xin lỗi, lao ra khỏi cửa.
Mấy người ở trong phòng nhìn qua cửa sổ, thấy một người toàn thân đầy máu tươi nằm phục dưới đất, không ngừng co giật. Tế sư đang cố gắng dùng thảo dược cầm máu cho y, nhưng chỉ uổng công vô ích, vì người đó gần như đã bị người ta dùng dao chém lìa, chỉ còn lại một tay một chân và hơn nửa thân thể.
Y đã dùng tấm thân tàn tạ đó lê trở về thôn làng. Lão già tách đám người ra, tới trước mặt người đó, cúi người xem xét vết thương, đột nhiên đau khổ khóc rống lên, quỳ thụp xuống đất, thân thể run rẩy dữ dội, ho lên sù sụ.
Những người xung quanh cũng quỳ xuống theo lão, khóc than rên rỉ. Người nằm trong vũng máu kia vươn cánh tay còn sót lại nắm chặt cổ tay lão già, khóe môi mấp máy, dường như đang muốn nói gì đó. Lão già nước mắt giàn giụa, tưởng chừng ngất đi mấy lượt.
Tế sư bước tới hai bước, thì thầm bên tai lão già mấy câu gì đó, như đang xin ý kiến. Lão già tỏ vẻ vô cùng đau khổ, nhìn người bị thương, rồi lại nhìn tế sư cùng dân làng, đưa tay giữ chặt lồng ngực mình, không ngừng thở dốc, cơ hồ đang gắng sức giữ cho mình tỉnh táo.
Tuy không nghe thấy bọn họ nói gì, nhưng chúng nhân cũng đoán được quá nửa, bởi vì chỉ có một nỗi đau mới có thể dày vo con người ta đến thế. Đó chính là khi y phải đối diện với một sự lựa chọn cực kỳ khó khăn.
Người trong vũng máu kia nghiêng nghiêng đầu, giống như đang cổ vũ lão già.
Lão già thở hắt một hơi dài u oán, tay ngưng lại trên không trung một lúc lâu, cuối cùng cũng hạ xuống.
Tế sư liền quỳ lạy lão già và người bị thương ba lần, rồi lấy ra một bình chất dịch màu đỏ nhạt, giao cho lão.
Bàn tay lão già run lên bần bật, nhưng vẫn nhận lấy, tất cả dân làng đều quỳ sát mặt xuống đất, lặng lẽ chờ đợi.
Lão già quay mặt sang hướng khác, chất dịch trong bình từ từ chảy xuống.
Người bị thương phát ra một tiếng kêu thảm thiết vô tả, mùi tanh thối nồng nặc bốc lên.
Trong nháy mắt, y đã chỉ còn lại một vũng máu.
Lão già gào lên thê lương rồi ngửa người ngã vật xuống đất.
Mấy tráng dinh trong làng lập tức tới đỡ lão dậy. Tế sư đổ một thứ bột phấn vào vũng máu kia, một đốm lửa lóe lên.
Chốc lát sau, máu tươi trên mặt đất đều hóa thành tro bụi.
Tương Tư bám chặt lấy song cửa, sắc mặt trắng nhợt dị thường, thấp giọng nói: “Tại sao, tại sao lại làm như vậy?”
Dương Dật Chi khe khẽ thở dài: “Đó là Man Tuấn, Man Di cũng chết rồi. Có điều không thể bò trở về được.”
Tương Tư kinh ngạc thốt lên: “ Ý ngài nói đây chính là người thân của lão nhân đó sao?”
Dương Dật Chi gật đầu: “Đúng vậy.”
Tương Tư run giọng nói: “Nhưng vừa rồi họ còn ở đây! Làm sao mà đã chết được?”
Dương Dật Chi lắc đầu: “Không biết, có lẽ là lúc đi săn bắn đã gặp phải dã thú gì đó.”
Tương Tư lắc đầu nói: “Ý ngài muốn nói họ vì chúng ta mà chết?”
Dương Dật Chi vẫn chưa trả lời, Tiểu Án đã cười lạnh lên tiếng: “Tuy tại hạ không thông hiếu thổ ngữ của bọn họ như Dương minh chủ đây. Nhưng cũng nghe được trước khi Man Tuấn chết không ngừng nhắc đi nhắc lại ba tiếng “Không Đỗ Mẫu”. Mà theo tại hạ được biết thì “Không Đỗ Mẫu” quyết không phải là dã thú gì cả.”
Dương Dật Chi trầm mặc giây lát, rồi nói: “Đích xác là không phải.”
Tiểu Án mim cười: “Vậy không biết là do Dương minh chủ tình cờ nghe nhầm, hay là cố ý muốn che giấu?”
Dương Dật Chi ngoảnh mặt nhìn ra cửa sổ, không trả lời y.
Trác Vương Tôn liền lên tiếng: “Dương minh chủ không chịu nói, vậy thì chỉ còn cách thỉnh giáo điện hạ hàm ý của ba chữ “ Không Đỗ Mẫu” đó rồi.”
Tiểu Án thở dài một tiếng nói: “Đối với tộc nhân của Man Tuấn, “Không Đỗ Mẫu” đích thực là một cấm kỵ đáng sợ nhất. Ý nghĩa của nó... tại hạ hi vọng là mình đã hiểu sai, dịch theo mặt chữ, từ này nghĩa là “tàn thi”.”
Tương Tư không khỏi run bắn người, nói: “Ý ngài muốn nói bọn họ đã gặp phải “tàn th ” ở ngoài kia?”
Thần sắc Tiểu Án có chút nặng nề: “Không biết Tương Tư cô nương có nghĩ đến một điều, bộ tộc này đã lĩnh ngộ được bí quyết bất tử, tại sao thôn trưởng còn phải nén đau giết chết Man Tuấn?”
Tương Tư lẩm bẩm nói: “Có lẽ vì bị thương quá nặng, thôn trưởng không nỡ nhìn thấy y đau khổ như vậy, nên mới không thế không giết chết y.”
Tiểu Án lắc đầu: “Man Tuấn tuy bị thương cực kỳ nghiêm trọng, nhưng từ đầu đến cuối cũng không rên rỉ lấy một tiếng. Vậy mà khi chất dịch kia rót xuống người, y lại gào lên đau đớn, điều này chỉ có thể chứng minh, nỗi đau do bị nước thuốc kia phân hóa còn đáng sợ hơn nỗi đau thân thể chia lìa gấp bội phần."
Tương Tư ngẩn người, cơ hồ như nghĩ ra điều gì: “Bọn họ vô cùng sợ thân thể của Man Tuấn, tộc nhân của họ tuy có thể sống lại, nhưng thân thể Man Tuấn đã tàn khuyết, căn bản không có khả năng sống tiếp...”
Tiểu Án nói: “Đúng là bọn họ rất sợ thân thể tàn khuyết của Man Tuấn, đến cả giọt máu cuối cùng cũng phải đốt thành tro bụi. Nhưng đó không phải vì y không thể sống lại.
Tương Tư hỏi: “Vậy thì là vì gì?”
Tiểu Án trầm giọng: “Bởi vì mỗi một bộ phận trên thân thể Man Tuấn, đều có thể sống lại!”