Kim Hồng Mai mang danh con gái nuôi của ông chủ Chúc, làm lễ tân ở khách sạn Trường An. Trần Nguyên Cương cũng học được một đạo lý từ trên người cô – Một người không nơi nương tựa, không người chống lưng mà muốn sống tiếp thì phải làm cho bản thân mình “bị” lợi dụng.
Ông chủ Chúc cho cô chỗ ăn chỗ ở, cô lại dùng tiền tích góp từ những buổi biểu diễn riêng tư đó để mua son phấn và quần áo. Khi cô yểu điệu đứng ở quầy lễ tân khách sạn Trường An, đám đàn ông khắp đường phố đều bị thu hút như ong bướm gặp hoa thơm. Cho dù là những người Hoa làm việc ở nông trường xa tận ngoại ô Melbourne, mỗi tháng cũng phải dành ra thời gian một ngày, ăn mặc chỉnh tề đi đến uống tách trà ở khách sạn Trường An. Kim Hồng Mai nhấc váy đi giữa đám đàn ông, để mặc cho đàn ông châm thuốc cho cô, cô ngồi đó tay kẹp điếu thuốc miệng cười lớn, phảng phất như cô vốn sinh ra ở trong rừng hoa rực rỡ sắc màu vậy.
Vượt ngoài dự đoán của Trần Nguyên Cương, Kim Hồng Mai rất có thiên phú ngoại ngữ. Đến phố người Hoa chưa đầy ba tháng đã học được tiếng Quảng Đông, còn có thể nói được tiếng Mân Nam. Khách đến khách sạn nói giọng nơi nào, cô sẽ nói giọng đấy. Phụ nữ đong đưa bên cạnh nói tiếng quê hương mình càng khiến khách hàng lưu luyến không quên.
Có một lần Trần Nguyên Cương nói chuyện với cô, cô liền chỉ tay vào cậu, cất giọng hồi tưởng.
Tiếng Thượng Hải sao, đó là thời điểm chạy nạn nghe dần rồi quen, người Giang Tô và Chiết Giang có thể nói sành sỏi từ bé đến lớn. Còn tiếng Quảng Đông và tiếng Mân Nam qua bên này nghe nhiều cũng bị ảnh hưởng, cũng không khó học mấy. Còn về tiếng Anh, là có người dạy cô một vài từ đơn giản, còn lại là vì sau khi cô ra nước ngoài, nói chuyện với người khác dần dần học được, nhưng ngữ pháp thì vẫn lung tung không đâu vào đâu.
“Ban đầu là ai dạy cô?” Trần Nguyên Cương hỏi.
Kim Hồng Mai khi đó đang sơn móng tay, cô chu môi thổi nhẹ vào móng, vẻ mặt chợt trở nên hờ hững.
“Là một gã khốn nạn.” Cô nói.
“Cô Kim.” Trần Nguyên Cương lại hỏi tiếp: “Đợi đến khi không còn chiến tranh nữa, cô có quay về Thượng Hải không?”
Kim Hồng Mai gác bàn tay đã sơn xong lên bàn, tay kia kẹp thuốc đưa lên miệng, ra hiệu cho Trần Nguyên Cương châm thuốc cho mình. Cô hút một hơi, nhàn nhạt nói: “Có lẽ sẽ về, cũng có lẽ sẽ không về, nhất thời tôi không nghĩ ra mình còn có người nào đáng để tôi trở về. Cậu muốn về ư? Chẳng phải cậu nói, người thân của cậu đã chết hết trong năm xảy ra thiên tai rồi hay sao?”
“Đúng, họ đều chết cả rồi.” Trần Nguyên Cương đờ đẫn gật đầu: “Nhưng… tôi rất nhớ mảnh đất ở quê hương mình.”
Kim Hồng Mai bật cười to.
“Vậy thì đợi đến lúc cậu già yếu, nhờ người dùng thuyền gửi đến cho cậu vài hũ đất ở Đài Sơn, sau đó cậu dùng bình sứ thanh hoa để chứa, đặt bình sứ ở trong nhà, xem như nó là mảnh đất của cố hương.”
“Vậy tôi cũng nhờ người nọ đưa ít bùn đất quê nhà cô Kim đến cho cô.” Trần Nguyên Cương nói một cách chân thành.
“Cũng được, nhưng đâu mới là quê nhà tôi đây?” Kim Hồng Mai nói: “Tôi là dân chạy nạn, từ lúc chiến tranh nổ ra, tôi từ Đông Bắc chạy nạn đến Bắc Bình. Chưa được bao lâu, lại từ Bắc Bình chạy đến Thượng Hải, cuối cùng còn bị người nhà bán vào đoàn ca múa mới lưu lạc đến tận nơi đây. Bỏ đi, có lẽ tôi chính là một gốc cỏ dại, đất ở nơi đâu cũng có thể mọc lên cỏ dại.”
Trần Nguyên Cương cảm thấy cô sinh ra như đóa hoa rực rỡ, cô lại nói mình là cỏ dại không rễ. Khách sạn lại đón thêm một nhóm Hoa kiều đến quyên tiền cho kháng chiến, Kim Hồng Mai tay kẹp điếu thuốc, tay kia đang phơi móng, bảo Trần Nguyên Cương đi lấy tiền Úc mà khách đã nhét cho cô đi quyên góp, lấy danh nghĩa của ông chủ Chúc.
Cách nói chuyện giữa Kim Hồng Mai và Trần Nguyên Cương khác hoàn toàn khi cô nói chuyện với những người đàn ông khác. Có lẽ là vì Trần Nguyên Cương còn nhỏ tuổi, trong đầu không có những suy nghĩ khập khiễng. Trần Nguyên Cương đối xử tốt với cô như cách đối xử với một người bạn. Có một lần, Kim Hồng Mai nói dạo gần đây cô hay đói giữa đêm, thế là mỗi ngày Trần Nguyên Cương đều lén lấy một phần phở xào ở nhà đưa đến khách sạn vào lúc đêm. Dần dà, vòng eo của cô cũng dần nhô lên, cô lén trừng cậu oán trách: “Bỏ ít dầu thôi!”
Thế là Trần Nguyên Cương dứt khoát nửa đêm tự mình xào để bỏ ít dầu hơn. Nhưng cậu thực sự chán ghét mùi vị của món ăn này, xào suốt nửa năm cũng tiến bộ hơn một chút.
Tình hình chiến tranh cứ gián đoạn, báo chí tiếng Hoa cứ cách ngày sẽ được tòa soạn tiếng Hoa tại Sydney đưa đến Melbourne, đám đàn ông trên phố người Hoa sẽ tụ lại một chỗ để ba hoa đàm luận. Có người đang nghĩ cách quyên tiền, có người lòng đầy căm phẫn, cũng có người lên tiếng châm chọc. Cứ có những khuôn mặt mới xuất hiện, cũng có những khuôn mặt cũ đột ngột biến mất. Giữa người cũ và người mới thay phiên nhau, Trần Nguyên Cương đã 16 tuổi.
Bữa cơm tối hôm đó, ba mẹ đặc biệt nấu cho cậu một bữa ăn không có phở xào, nhưng Trần Nguyên Cương không tài nào vui nổi.
Có lẽ là do ảnh hưởng của các trường học phương Tây khác, tại trường tiếng Hoa nơi Trần Nguyên Cương theo học, khi nam sinh đủ 16 tuổi sẽ được phép tham gia vũ hội anh em được tổ chức bí mật, mỗi người đều phải dẫn theo bạn nhảy của mình đến.
Trần Nguyên Cương không có bạn nhảy, cậu vẫn luôn đoán rằng mình chính là học sinh nghèo nhất trường, những bạn học khác hiển nhiên cũng nghĩ như vậy. Khi vũ hội đang đến gần, thỉnh thoảng họ lại đến cười nhạo cậu: “Nguyên Cương, cậu tìm được bạn nhảy chưa? Nếu chưa thì tôi có thể giới thiệu công nhân nhổ cỏ trong nhà tôi cho cậu!”
Có một lần nóng nảy, cậu nhất thời bị kích động nên buộc miệng nói: “Ai nói tôi không tìm được bạn nhảy? Tôi đã mời xong từ lâu rồi!”
Tiếng cười ồ của đám bạn học vây xem vang vọng từ trường học cho đến tận phố người Hoa, ồn đến mức khiến Trần Nguyên Cương bực dọc trong lòng, ngay cả đĩa phở xào tối hôm đó cũng cháy khét một mảng. Kim Hồng Mai vừa bỏ vào miệng đã cau mày lại, cô đặt đũa xuống, sao tay nghề thụt lùi đến mức còn khó ăn hơn cả đĩa phở lần đầu tiên vậy chứ?
Cô muốn đi, Trần Nguyên Cương vội vàng nói xin lỗi. Kim Hồng Mai khoanh tay nhìn cậu, ánh trăng chiếu rọi trên gương mặt lạnh lẽo như băng sương vì chưa được lấp đầy bụng đói, gương mặt xinh đẹp động lòng người.
Trần Nguyên Cương nhìn vào gương mặt ấy, đột nhiên trong đầu nảy ra một ý tưởng.
Lúc ban đầu đương nhiên Kim Hồng Mai từ chối.
Dù đến nước ngoài cô rơi vào nghèo túng, nhưng năm đó cũng là trụ cột của Bách Nhạc Môn, giờ lại bị một cậu nhóc hỉ mũi chưa sạch kéo đến vũ hội thì coi ra gì? Nhưng Trần Nguyên Cương gần như coi cô là cọng rơm cứu mạng, cầu ngày cầu đêm. Vì để nịnh nọt cô, ngay cả tay nghề xào phở cũng càng ngày càng tiến bộ hơn, càng về sau thậm chí còn ngon hơn cả phở xào mà ba mẹ cậu bán ban ngày.
Kim Hồng Mai giận bản thân mình tham ăn. Đúng thật là muốn nắm lấy trái tim người phụ nữ phải thông qua dạ dày trước tiên mà. Cô đường đường là một đóa hoa giao tiếp của phố người Hoa, chỉ vì để ăn khuya mà lại lần lữa không nói được lời từ chối. Trần Nguyên Cương năn nỉ cô mãi cho đến đêm trước ngày diễn ra vũ hội, hai người ngồi trong sảnh khách sạn tối om, cậu hỏi với vẻ mặt đáng thương: “Cô Kim, tôi đã mang phở xào cho cô suốt cả tháng nay, cô cân nhắc chuyện tôi nói thế nào rồi?”
Kim Hồng Mai cúi đầu nhìn đĩa phở xào mà Trần Nguyên Cương vừa mang từ nơi tận cùng trong phố người Hoa đến.
Trải qua một tháng thử luyện, Trần Nguyên Cương đã nấu thông thạo món này, sợi phở dai mềm, rau hẹ giòn ngọt, đĩa phở xào óng ả dầu nhưng bỏ vào miệng không hề ngấy. Kim Hồng Mai ăn đồ ăn của người ta nên cũng đắn đo, ánh mắt nhìn ra mảnh trăng sáng như nước bên ngoài cửa sổ, cuối cùng vẫn miễn cưỡng gật đầu.
“Được rồi, tôi đi là được chứ gì.” Cô nói tiếp: “Cậu đi nói rõ thời gian với ông chủ Chúc, đến lúc đó tôi phải tranh thủ thời gian về phòng trang điểm.”
“Cô thế này đã rất xinh đẹp rồi.” Trần Nguyên Cương nói.
“Thế này mà đủ sao?” Kim Hồng Mai nói: “Cậu đi đến Thượng Hải hỏi thử xem, Kim Hồng Mai tôi đi ra ngoài với người nào mà người đó không phải người có thể diện nhất không?”
Trần Nguyên Cương còn nhỏ tuổi, vẫn chưa hiểu thể diện là như thế nào. Đợi đến ngày hôm sau, khi cậu mặc một bộ vest không hợp với dáng người đi vào trong khách sạn Trường An, nhìn thấy Kim Hồng Mai khoác bộ váy múa mẫu đơn xuống lầu, trên đầu còn đội một chiếc mũ kiểu phương tây có gắn lông vũ ở chóp mũ rủ xuống một lớp mạng che mặt màu đen, dưới mạng che là một khuôn mặt đã được trang điểm xinh đẹp.
Kim Hồng Mai nói được làm được. Ngày hôm đó, cô xinh đẹp chấn động tứ phương, còn cậu trở thành người nở mặt nhất trong vũ hội. Cậu chưa từng tham gia vũ hội, lần đầu tiên ra sàn nhảy, thứ cậu có là những bước nhảy vụng về mà cậu đã lén luyện tập ở nhà. Đàn ông mới 16 tuổi, dáng người vẫn chưa nhổ giò, Kim Hồng Mai mang giày cao gót, cũng không thấp hơn cậu bao nhiêu. Trần Nguyên Cương bạo gan ôm lấy eo cô, cảm nhận được vòng eo căng tròn vì ăn khuya một tháng liên tục gây nên.
“Cô béo hơn rồi.” Cậu thành thật nói.
“Hừ.” Kim Hồng Mai nhíu mày.
Có những giai đoạn trao đổi bạn nhảy, vài nam sinh đã ngấp nghé từ lâu nhào tới cô như ong vỡ tổ, Kim Hồng Mai trợn tròn mắt, bàn tay đặt lên vai Trần Nguyên Cương, cất giọng uể oải nói: “Tôi mệt rồi.”
Cô không có hứng thú với đám nhóc này, cơ hội của Trần Nguyên Cương là nhờ phở xào mang lại, đám nhóc đó không có cửa.
Trần Nguyên Cương biết điều đỡ cô đi ra ngoài, Kim Hồng Mai vừa đi vừa cằn nhằn: “Hồi ấy ở Thượng Hải, một điệu nhảy của tôi được đấu giá cực cao, những người có thể ngồi ở đó đều là phú thương nổi tiếng hàng đầu. Bây giờ lại lưu lạc đến mức làm bạn nhảy cho đám nhóc các cậu…”
Trần Nguyên Cương nói: “Tôi cũng có thể trở thành phú thương hàng đầu.”
“Cậu có thể bán phở xào.” Kim Hồng Mai nói.
“Tôi có thể bắt đầu từ việc bán phở xào, đợi khi có đủ tiền sẽ mở quán ăn, mở nhà hàng.” Trần Nguyên Cương tỏ ra suy nghĩ rồi nói.
“Cậu thật nhiều ý tưởng.” Kim Hồng Mai tháo giày cao gót ra, đôi chân trần bước đi cùng cậu trong màn đêm, lặng lẽ nói: “Muốn dùng thuyền vận chuyển đất quê hương, muốn mở nhà hàng, còn muốn làm phú thương hàng đầu. Sao đây, muốn tôi chúc cậu bay lên như diều gặp gió, đạt được sự nghiệp lớn?”
“Với tính cách này của cô Kim, nếu như gặp được thời cơ, cũng có thể có được sự nghiệp lớn.” Trần Nguyên Cương nghiêm túc nói.
“Tiếc là tôi không gặp được cơ hội ấy, tôi sinh ra đã là dân chạy nạn, sau đó làm vũ nữ, bây giờ lại là một tiếp tân.” Cô khựng lại rồi nói tiếp: “Lúc này đây tôi không mong sự nghiệp to lớn nào nữa, tôi chỉ muốn sống sót. Trước kia dựa vào vũ đoàn nước ngoài, giờ đây nương tựa ông chủ Chúc. Tôi không thể làm nổi phú thương hàng đầu, tôi chỉ muốn làm một gốc cỏ dại có thể tự mình bám rễ vào thế giới này, không cần dựa dẫm vào ai nữa.”
Trần Nguyên Cương nghe như hiểu như không.
Năm 1940, tình hình chiến tranh thế giới thứ hai trở nên căng thẳng. Hà Lan, Bỉ và Pháp lần lượt bị chiếm đóng, Nhật Bản đề xuất ý tưởng “Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á” nhằm cố gắng hợp lý hóa cuộc chiến mà nước này đã khơi mào ở Đông Á. Tin tức vừa truyền ra, cộng đồng người Hoa ở Úc đã vô cùng tức giận, tiếng mắng chửi trong khách sạn Trường An vang vọng từ sáng sớm cho đến khi đóng cửa.
Trần Nguyên Cương chào từ biệt Kim Hồng Mai trong tiếng mắng chửi náo động đó.
Ba mẹ của cậu đã quyết định dọn tới Sydney, tụ họp cùng với đồng hương ở nơi đó, hùn vốn lại mở một quán ăn lớn hơn. Trước khi đi, cậu đã làm đĩa phở xào cuối cùng cho Kim Hồng Mai, lặng lẽ ngồi nhìn cô ăn xong.
Năm 1948, ba mẹ Trần Nguyên Cương lần lượt qua đời, cậu tiếp nhận quán ăn của ba mẹ. Tay nghề nấu nướng cho Kim Hồng Mai vào những buổi đêm đó cũng được cậu áp dụng vào công việc làm ăn, tiếp quản chưa bao lâu, quán ăn đã đông khách đến nườm nượp.
Năm 1990, Trần Nguyên Cương trở lại Melbourne, gặp mặt Kim Hồng Mai. Họ giờ đã già rồi, cậu nhóc canh cửa ngày đó đã trở thành ông chủ lớn của một nhà hàng. Cô tiếp tân cũng đạt như ý nguyện, trở thành cỏ dại bám rễ nơi đây. Sau lần gặp mặt đó, Trần Nguyên Cương bắt tay vào xây dựng nhà hàng, nguồn của cải kếch xù ném vào vực sâu không đáy trên núi hoang này, đến con trai cũng không nhịn được từng hỏi ba mình tiền đã tiêu hết vào đâu.
Thì ra mỗi một cái cây ngọn cỏ, mỗi một viên gạch tấm ngói đều có nguồn gốc của nó. Cái cây trước cửa là cây ở quê nhà được vận chuyển đường biển tới; nhúm đất trong bình là đất quê nhà vượt biển lớn xa xôi.
Đây là toàn bộ những gì Trần Nguyên Cương có thể nhớ được, những câu chuyện có liên quan đến Kim Hồng Mai.
***
Trần Nguyên Cương giờ đã lẩm cẩm, ông ấy nói rất nhiều, nói đến khi buồn ngủ cơ thể lảo đảo suýt ngã xuống ghế. Mộc Tử Quân nhanh tay đỡ lấy vai ông ấy, vẻ mặt ngỡ ngàng nhìn về phía Tống Duy Bồ.
Người lớn tuổi đi vào giấc ngủ chỉ cần một cái chớp mắt. Trần Nguyên Cương được Mộc Tử Quân đỡ lấy thoáng chốc đã ngáy như sấm, Tống Duy Bồ gọi điện thoại cho Trần Tiếu Vấn, gọi anh ta đến đây đón người.
Chẳng mấy chốc Trần Tiếu Vấn đã chạy đến, bên cạnh còn có Quản lý nhà hàng ngái ngủ lờ đờ theo sau. Anh ta bảo Quản lý đỡ Trần Nguyên Cương về phòng, còn mình thì ở lại nói lời xin lỗi với Mộc Tử Quân.
Trần Nguyên Cương đã lớn tuổi, có những chuyện ông kể rất lộn xộn khó hiểu, nhưng may mà lý do vì sao ban đầu Kim Hồng Mai đến Úc, vì sao hạt ngọc hoa hồng đỏ lại ở trong tay khách sạn Trường An đều được giải thích rõ ràng trong lời kể của ông ấy. Đêm khuya khoắt, bọn họ nói qua loa vài câu, sau đó ai nấy lại về phòng ngủ.
Mộc Tử Quân và Tống Duy Bồ đi đến trước cửa phòng, cô lại bất giác đưa tay vuốt ve những hạt ngọc còn lại trên vòng tay. Cảm giác được cô có điều muốn nói, Tống Duy Bồ thả chậm bước chân lại.
“Tôi nghe những câu chuyện trước đó còn tưởng rằng Trần Nguyên Cương yêu thầm bà ngoại anh.” Cô nói tiếp: “Nhưng càng nghe về sau thì lại không giống như yêu.”
“Quả thực không giống.” Tống Duy Bồ đồng ý với cách nghĩ của cô: “ Không phải tình cảm giữa nam và nữ đều sẽ là tình yêu, lúc ông ấy nói chuyện với em, ông ấy rất kính trọng em.”
“Nhưng nghe ra được, dường như bà ấy thực sự không có tình cảm gì với ông nội tôi rồi.” Mộc Tử Quân thở dài: “Tôi không biết tiếp theo đây tôi có cần đi tìm những hạt ngọc kia tiếp hay không nữa.”
“Tùy em nghĩ thế nào.” Tống Duy Bồ nói tiếp: “Ngày mai tôi còn phải lái xe, tôi đi ngủ một lát.”
Mộc Tử Quân gật đầu, ánh mắt nhìn theo Tống Duy Bồ vào phòng. Cô cũng quay trở lại trong chiếc chăn bông lạnh ngắt, ngón tay mân mê từng hạt ngọc trên cổ tay.
Màn hình điện thoại chợt sáng lên, hiếm khi Tống Duy Bồ nhắn tin cho cô. Mộc Tử Quân nheo mắt ấn mở tin nhắn, nhìn thấy hình đại diện thẻ chip đánh bạc của anh sáng lên đi kèm theo bốn chữ:
[Tiếp tục tìm nhé.]
Đó là lời Tống Duy Bồ muốn nói.