Địa thế thành Thúy Cừu khá cao, mặc dù lũ Bạch Hà tràn lan nhưng phần lớn đồng ruộng vẫn yên ổn, có thể xem như là thành trì an toàn nhất khắp lưu vực, nhưng chính phần an toàn này lại mang đến cho Hoa Bình Dã và cư dân trong thành nhiều phiền toái mới.
Xe ngựa đi trên đường mấy ngày này bắt gặp càng nhiều lưu dân hơn, bọn họ dìu già dắt trẻ ngồi dọc ven đường, nhác thấy xe ngựa phú hộ đi ngang qua liền cao giọng xin ăn. Đường sá chật hẹp, tốc độ xe chạy cũng phải giảm xuống, A Ninh buông màn xe, nhỏ giọng hỏi Liễu Huyền An: “Công tử, chúng ta có nên cho họ ít đồ ăn không?”
Liễu Huyền An lắc đầu: “Không cho được.”
A Ninh không hiểu: “Vì sao?”
Liễu Huyền An nói: “Người bên ngoài quá đông, cho một người sẽ có mười người chạy đến xin, cho mười người lại tới thêm trăm ngàn người nữa.”
A Ninh lại nhìn ra ngoài qua khe hở, thấy trong đám người có mấy đứa trẻ đã đói đến lả đi, chưa muốn từ bỏ ý định: “Công tử, hay là để ta lén cho người phụ nữ kia một miếng bánh, không để người khác phát hiện.”
Liễu Huyền An thở dài: “Ngươi cứ đi thử xem.”
A Ninh nhặt một miếng điểm tâm lớn trên đĩa, gói kỹ vào khăn tay cất trong ngực áo, nhanh tay lẹ chân chui ra khỏi xe ngựa. Tầm mắt cậu tìm thấy người phụ nữ kia, nhếch môi thoáng cười, nhảy xuống xe ngựa muốn chạy nhanh về hướng đó, mà người phụ nữ cũng đột ngột đứng lên, lê đôi chân khẳng khiu tập tễnh vọt về phía cậu.
Rất nhiều lưu dân bên cạnh cô ta đã chú ý đến A Ninh, đoàn người bụng rỗng trông thấy thiếu niên khỏe mạnh trắng trẻo như bầy sói đói trông thấy thịt tươi, toàn bộ xôn xao bò dậy khoá chặt mục tiêu.
“Thiếu gia, cho chúng ta chút gì ăn đi!”
Bọn họ lớn tiếng rỉ, có người chịu không nổi té xuống đất cũng không ai đỡ dậy, mọi người tiếp tục giẫm lên thi thể kẻ mới chết nhào lên, hoàn toàn không quan tâm máu thịt lầy lội dưới chân tựa như một đám rối gỗ quần áo tả tơi không có sự sống. A Ninh bị dọa đứng sững tại chỗ, mắt thấy bảy tám cánh tay dơ bẩn cứng còng chuẩn bị kéo lấy cậu, một hộ vệ phi thân xách người ném vào xe ngựa, lại rút đao ra khỏi vỏ, quay đầu hung hăng quát đám người: “Mau cút về chỗ!”
Hàn quang chói mắt khiến đám lưu dân chùn bước. Nhân cơ hội do dự này, xa phu dùng sức quất roi, nhanh chóng lái xe ngựa đi xa.
Bên ngoài vẫn là những tiếng kêu thảm thiết, cầu xin, khóc lóc và mắng chửi ác độc vọng vào khiến người ta nghe mà sợ hãi. A Ninh ngồi một bên xe ngựa, trong ngực còn nhét miếng bánh đã vỡ vụn, im lặng không lên tiếng. Ngày thường cậu nghe công tử lải nhải Thiên đạo trôi nổi hư không mãi thành quen, đây vẫn là lần đầu tiên đối diện với nhân tính trụi. Vừa rồi có ít nhất ba người bị xô đẩy giẫm đạp lên, tám chín phần mười sẽ chết, không, chắc chắn chết. Mà thứ gây ra cái chết cho họ là sự vô tri lỗ mãng của chính bản thân cậu.
Liễu Huyền An an ủi: “Đừng khóc.”
A Ninh vẫn cúi đầu rầu rĩ.
Liễu Huyền An kéo cậu ôm vào lòng, vỗ vỗ lưng dỗ dành: “Y giả chỉ có thể chữa bệnh, không thể cứu chữa thiên hạ, ngươi đừng quá tự trách.”
A Ninh nghèn nghẹn hỏi: “Vậy ai mới cứu được thiên hạ?”
Ai mới cứu được thiên hạ.
Liễu Huyền An không trả lời, chỉ ngoái đầu nhìn ra cửa sổ xe, bên ngoài tấm mành nửa trong suốt là một bóng dáng cao lớn đang ôm bội kiếm cưỡi ngựa.
……
Bốn cổng thành Thúy Cừu đóng chặt, dán một tấm bố cáo lớn nói trong thành đã tiếp nhận số lượng lớn nạn dân, trước mắt không thể chứa thêm người nữa. Nhưng dù vậy, bên ngoài vẫn có rất nhiều người chờ đợi vào thành, mỗi người chọn chỗ ngồi râm mát, trông thấy quan binh mở cửa thành cho một cỗ xe ngựa tiến vào lập tức nhao nhao lao tới.
Liễu Huyền An che tai A Ninh, ngăn chặn tiếng mắng chửi và cầu xin lại bên ngoài. Suốt dọc đường hầu như chỗ nào cũng có những âm thanh tương tự, tuy A Ninh là y giả nhưng vẫn còn ở tuổi thiếu niên, chưa thể thoát khỏi ám ảnh từ trận bạo loạn giẫm đạp tàn khốc kia nên mấy hôm nay ít nói đi rất nhiều.
Quan binh hộ tống xe ngựa vào thành, cổng thành vừa đóng lại, quang cảnh lập tức biến thành một thế giới trái ngược. Ngoài cửa là địa ngục trần gian xác chết chồng chất, bên trong vẫn là dáng vẻ trật tự mà một tòa thành nên có.
Hoa Bình Dã nói: “Vương gia, ngoại trừ lương thực đủ cung cấp cho cư dân, toàn thành Thúy Cừu không dư thừa một hạt gạo, thi thể bên ngoài thành mỗi ngày một nhiều, thật sự là…”
Cứ như vậy, Hoàng Vọng Hương cần gì sử dụng bùa chú cổ thuật, chỉ cần giương cao cờ hứa hẹn tương lai sẽ có cơm no áo ấm chẳng phải đã lôi kéo được một đám người truy phủng rồi sao.
“Nhóm người này đầu tiên là cướp lương thực triều đình phân phối, sau đó lại cướp đoạt hai ba thành trấn liên tục.” Hoa Bình Dã nói, “Thấy quan quân lập tức giết rồi bêu đầu trên lối vào núi Lương Sơn thị uy. Nghe nói Hoàng Vọng Hương từng tuyên bố, một đầu cẩu quan có thể đổi lấy hai sọt lương thực.”
Cướp đoạt lương thực triều đình phân phát, nghĩa là số bá tánh chờ được cứu viện sẽ bị đói chết, cướp đoạt thành trấn, vậy bá tánh trong thành làm sao sống nổi? Lưu ly loạn thế, dân chúng lầm than, đầu tiên là người bị hại, sau đó biến thành kẻ đi hại người, tạo ra càng nhiều người bị hại, vòng tuần hoàn cứ thế lặp lại, sự tình cứ thế lan tràn cho đến ngày vương triều hoàn toàn sụp đổ.
Liễu Huyền An đã gặp qua rất nhiều ví dụ tương tự trên dòng sông dài lịch sử.
Hoa Bình Dã chuẩn bị xong phòng cho khách. Lương Thú đưa Liễu Huyền An về chỗ ở, “Ta nghe Cao Lâm nói, ngươi muốn mua một ít dược liệu trị bệnh giải nhiệt thường thấy?”
“Là đề nghị của A Ninh, lưu dân lang thang trong thời tiết nóng bức, rất dễ xuất hiện ôn dịch.” Liễu Huyền An nói, “Những thi thể ở ngoài thành, tốt nhất cũng nên tìm nơi chôn lấp đi, rải thêm chút vôi bột nữa.”
“Chuyện này ngươi không cần lo lắng, mỗi ngày Hoa Bình Dã đều sai quan binh mang mũ giáp đi xử lý thi thể.” Còn vì sao phải mặc áo giáp, thứ nhất là để uy hiếp, thứ hai là phòng ngừa giẫm đạp, thứ ba…Hiện thực quá tàn khốc máu me, Lương Thú không muốn nhắc trước mặt y. Đối với những kẻ bụng đói cồn cào, thi thể người mới chết đôi khi cũng là thức ăn, để có thể cướp đoạt lại vài “miếng ăn” từ trong tay quan binh, bọn họ sẽ điên cuồng cắn xé như dã thú.
Môi Lương Thú hơi nứt nẻ, Liễu Huyền An mở ấm trà trên bàn nhìn vào, bên trong ngâm ít lá trà thô to, màu sắc đậm, hẳn là cực kỳ đắng, y liền xoay người lấy trong tủ ra một cái bình sứ rắc ít thuốc bột, dùng nước ấm hòa tan: “Vương gia uống nước đi.”
Lương Thú nhìn chất nước màu hồng nhạt trong chén, hỏi: “Đại phu các ngươi hạ độc đều không thèm che giấu thế à?”
Liễu Huyền An bật cười: “Là mơ rừng phơi khô nghiền thành bột, ta bỏ thêm chút mận ngọt vào thích khẩu vị, còn có ngân đan giúp tỉnh táo, mấy thứ này trộn vào nhau không độc chết ai được đâu.”
Lương Thú uống một chén, chua chua ngọt ngọt, một luồng cảm giác mát mẻ từ đầu lưỡi trực tiếp xông lên đỉnh đầu, đúng là rất hữu ích.
Liễu Huyền An đưa bình sứ cho hắn: “Còn nhiều lắm, Vương gia có muốn tự giữ không?”
Lương Thú không nhận: “Ta không biết dùng.”
Hậu duệ hoàng tộc, con cháu thế gia không bao giờ tự mình rót nước, chuyện này rất bình thường.
Cho nên lúc nào muốn uống, cần phải có đại phu đích thân pha cho.
Liễu Huyền An đành cất lại bình sứ vào ngăn tủ.
Lương Thú ngồi bên bàn nhìn y bận rộn, tảng đá nặng nề đè trong lòng suốt dọc đường đến lúc này mới hơi dỡ xuống một chút. Tuy hắn sớm nhìn quen sinh tử, nhưng sống chết mỗi nơi lại chẳng giống nhau. Mấy trăm, mấy ngàn, mấy vạn tướng sĩ chết trên sa trường là để đổi lấy yên ổn cho mấy chục vạn, mấy trăm vạn, mấy ngàn vạn bá tánh, cho nên dù cát vàng vùi xương cũng xem như hy sinh có ý nghĩa. Nhưng giờ phút này, bá tánh lưu vực Bạch Hà mất mạng để đổi lấy cái gì?
Bá tánh chết không có nửa phần vinh quang, chỉ có nhục nhã và tuyệt vọng vô tận, thậm chí còn mang theo trách móc đẫm huyết lệ, lên án kẻ thống trị vô năng.
Đứng trước thời đại, một người, hoặc một nhóm người thật sự quá nhỏ bé đến không đáng kể. Lương Thú nhắm mắt lại muốn suy nghĩ một chút, huyệt thái dương đã truyền tới một cảm giác lạnh lẽo. Liễu Huyền An cúi người, trong tay cầm một hộp thuốc cao không biết là gì, đang dùng một cái que bằng ngọc nho nhỏ chậm rãi mát xa cho hắn.
Lương Thú hỏi: “Ngươi chữa trị cho bệnh nhân luôn không lên tiếng báo trước như thế sao?”
“Cha ta cũng hay chữa cho ta như vậy.” Liễu Huyền An nói, “Có một đoạn thời gian tì vị của ta không tốt, phải điều trị, ta thường xuyên đang ngủ thì bị kim đâm tỉnh.” Y kéo một cái ghế qua ngồi xuống, “Ngự y trong cung mới cần nhiều quy củ, chúng ta thì… Đừng nhúc nhích!”
Lương Thú hít sâu một hơi: “Vì sao không được cử động, ngươi không nhìn xem cây kim trong tay ngươi bự thế nào hả.” Hơn nữa cái thứ này mọc từ đâu ra vậy?
“Thế này mà to gì, cây châm to nhất ở trong tay cha ta ấy, chưa bao giờ cho người khác chạm vào.” Liễu Huyền An nói, “Của ta là nhỏ lắm rồi, đã nói đừng nhúc nhích, ta đâm trượt bây giờ.”
Kiêu Vương điện hạ đành ngồi cứng đờ trên ghế, chưa thể nghĩ thông vì sao mình chỉ đưa y về phòng có một chuyến, kết quả bị cắm cho một đầu đầy châm. Từ một chén nước thanh ngọt đến thuốc cao mát lạnh, xong lại đến cái thứ thô to kinh dị này. Từng thứ một được lưu loát lấy ra, miệng còn nói đông nói tây dời lực chú ý, nếu đặt trong binh pháp sẽ được gọi là ám độ trần hương, lạt mềm buộc chặt, đục nước béo cò, giả điên giả ngốc.
Hắn lên án: “Ngươi cố ý.”
Liễu Huyền An phủ nhận, không có.
Lương Thú: “Cao Lâm nói với ngươi chứ gì.”
Liễu Huyền An tiếp tục phủ nhận, không có mà.
Lương Thú nói: “Hắn chán sống rồi.”
Liễu Huyền An căng da mặt: “Ừ, cứ ngồi yên đi đã.”
Đúng là Cao Lâm tới tìm Liễu Huyền An, nói gần đây Vương gia nhà mình luôn đau đầu, ngủ cũng không yên giấc, hỏi y có biện pháp nào điều dưỡng một chút không. Nhưng đồng thời lại yêu cầu tốt nhất đừng châm cứu, đừng kê thuốc đắng, nằm nghỉ nhiều cũng không được. Kiêu Vương điện hạ nhiều tật xấu như thế đấy, lỡ tay đụng vào vảy ngược thì đùng đùng tức giận, đã có không ít ngự y vì vậy mà ăn mệt.
Không muốn uống thuốc đắng thì được, tạm thời không muốn nằm nghỉ ngơi cũng được, nhưng châm cứu bắt buộc phải làm. Một tay Liễu nhị công tử ấn lên bả vai Lương Thú, tay kia chậm rãi xoay tròn cây kim, nghĩ thầm trong đầu, cái này cũng không khó lắm, cứ tuần tự từng bước canh lúc hắn không kịp đề phòng là ổn, chẳng lẽ ngự y Thái Y Viện không ai làm được sao?
Lương Thú càu nhàu: “Đau.”
Liễu Huyền An nói: “Bình thường thôi.”
“Đau còn bình thường?”
“Mấy cây châm thì đau được đến đâu. Được rồi, đừng động đậy, để ta kêu A Ninh đi sắc thuốc.”
Lương Thú vừa nghe đến hai chữ “sắc thuốc” là nhức đầu: “Lại còn uống thuốc nữa?”
“Có bệnh đương nhiên phải uống thuốc.” Liễu Huyền An cất túi đựng châm đi, “Nhưng Vương gia không cần lo lắng quá, thuốc kia không đắng lắm đâu.”
Lương Thú không quá vui: “Ngươi cho rằng bổn vương sợ đắng?”
Liễu Huyền An nghĩ thầm, chẳng lẽ không phải, Cao phó tướng liên tục cường điệu hẳn ba lần cơ mà. Thế nhưng y vẫn rất cho Kiêu Vương điện hạ mặt mũi: “Không có.”
Kiêu Vương điện hạ tôn quý miễn cưỡng “ừ” một tiếng, xem như tán đồng.
Liễu Huyền An nhìn hắn một lát, nghiêm túc mím môi: “Nếu Vương gia không sợ đắng, ta sẽ cho thêm vào mấy vị thuốc nữa, hiệu quả an thần có thể mạnh hơn một chút.”
Vừa nói y vừa nhấc bút trên nghiên mực, tìm một tờ giấy viết phương thuốc mới, ngay dòng đầu tiên đã là nửa cân hoàng liên. Lương Thú xem mà thái dương nảy thình thịch, liều lượng này là muốn sắc thuốc hay muốn tắm luôn vậy. Hắn chăm chú nhìn vào mắt đối phương như muốn tìm ra một chút ý đồ trêu cợt, nhưng mãi không được như ý. Sắc mặt Liễu Huyền An không chỉ nghiêm túc, chữ viết cũng mảnh mai phiêu dật, ngay ngắn sắp hàng bên nhau làm phương thuốc càng có vẻ quyền uy đáng tin cậy, cho dù bên trong có viết lẫn thêm hai cân giò, người bệnh tám phần vẫn cảm thấy nên dùng.
Mà Kiêu Vương điện hạ đương nhiên cũng bị dọa, một phần nguyên nhân là hắn biết rõ Liễu nhị công tử từ ngày bé đã là ông cụ non bốn vạn tám ngàn tuổi, xem tất thảy mọi người đều là sâu kiến, cho nên không việc gì phải đùa giỡn với phàm nhân, không lý nào chỉ nhằm vào mỗi mình hắn.
Liễu Huyền An viết xong phương thuốc lập tức cất vào ngực áo, phiêu dật đi mất như thần tiên.
Lương Thú giữ được mặt mũi quý giá thở phào một hơi, ngồi dựa vào bàn cân nhắc, thuốc có thể sắc, nhưng mình thì không nhất định sẽ uống.
Kết quả A Ninh rất biết chọn thời điểm. Qua giờ cơm chiều, lúc tất cả mọi người đang tụ họp nghị sự trong thư phòng, cậu người hầu lon ton bưng theo hộp đựng thuốc quyết đoán mở cửa ra.
Lương Thú: “……”
Chén đựng thuốc lớn đến mức có thể lấy ăn mì, lúc được mang ra gây hiệu quả thị giác kinh người. Hoa Bình Dã trông thấy cũng phải chấn động, hắn ở quân doanh nhiều năm, Vương gia trong trí nhớ cho dù bị thương nghiêm trọng cỡ nào, thuốc cũng chỉ nhấp vài ngụm cho có, cứ như sợ uống nhiều thêm một miếng sẽ hại thân. Bây giờ đổi thành một bát đầy tràn, hắn tưởng Vương gia bệnh nặng, vội vàng lớn tiếng đầy quan tâm: “Mọi người đừng nói chuyện nữa, để Vương gia tranh thủ uống thuốc lúc còn nóng.”
Một bát lớn màu nâu đen đặc khiến não Lương Thú giật giật mấy cái, nhưng toàn bộ người trong phòng đều đang nhìn vào, hắn đành không đổi sắc mặt bưng bát lên.
Uống một hơi cạn sạch, không đắng, chỉ hơi nhân nhẩn, còn lẫn chút vị chua ngọt.
Hắn nhìn về phía cửa.
Liễu Huyền An đứng khoanh tay, trên mặt giấu không được ý cười.
Không đắng, đùa ngươi thôi.
Không khí trong thư phòng oi bức, tuy cửa sổ đã mở toang nhưng vẫn không thấy mát mẻ hơn bao nhiêu, ngược lại gió còn thổi cho ánh nến liên tục lung lay. Một phòng đầy người thảo luận toàn những chuyện phiền phức, hoàn cảnh không thể coi là tốt đẹp. Tâm trạng Lương Thú vốn đang bực bội, bây giờ lại vì một bát thuốc, một nụ cười mà trở nên dễ chịu hơn nhiều.
Cao Lâm lấy khuỷu tay chọc A Ninh một cái, thần dược gì mà tài thế, Vương gia uống vào mà tâm trạng tốt hẳn lên, hay là ngày mai cũng sắc cho ta một chén đi.
“Công tử cho vào trong thuốc nhiều rễ ngọt lắm.” A Ninh nói nhỏ, “Cao phó tướng muốn uống sợ là không có, công tử nói, trên đường đi không tiện mua dược liệu, phải tiết kiệm, cho nên sau này toàn bộ rễ ngọt và sơn tra chỉ để cho mỗi Vương gia dùng thôi.”
Hai người còn đang rì rầm nói chuyện, Hoa Bình Dã đã mở bản đồ ra lần nữa. Cao Lương là một ngọn núi cực cao và hiểm trở, khe rãnh ngang dọc dễ thủ khó công. Lương Thú hỏi: “Phản quân hiện tại có tổng cộng bao nhiêu người?”
Hoa Bình Dã trả lời: “Tính toán sơ lược phỏng chừng ít nhất năm vạn, nhưng con số cũng không chuẩn xác. Bây giờ thanh danh Hoàng Vọng Hương đang lên cao, không ít người còn giả cờ hiệu của hắn để chiêu binh mãi mã, phía đông một đội phía tây một nhóm, nơi nào cũng có, thật sự rất khó phân biệt thật giả.”
“Thật cũng được mà giả cũng được, tất cả đều là phản quân.” Lương Thú nhìn về phía Liễu Huyền An, “Có ý tưởng gì không?”
“Quân của chúng ta có thể giả trang thành lưu dân lẫn vào phản quân, công phá từ bên trong thì sao?”
“Giả trang không khó, nhưng muốn trà trộn vào lại không dễ dàng.” Hoa Bình Dã giải thích, “Nghe nói lưu dân vừa gia nhập chỉ được phân cho chức vụ thấp nhất là thủ hạ của tiểu đầu mục, nhất định phải theo bọn họ đi cướp lương thực tiền bạc hoặc chết vài quan viên thì mới có tư cách gặp Hoàng Vọng Hương, hơn nữa bây giờ hắn hoàn toàn không ở núi Cao Lương nữa.”
“Vậy chủ lực phản quân đang ở đâu?”
Vừa hỏi dứt câu đã có người đưa vào một bức quân báo, giữa vô số dòng tố khổ vô nghĩa mới gắp ra được một đoạn hữu dụng, nói Hoàng Vọng Hương đã suất lĩnh phản quân công phá liên tục ba toàn thành, đăng cơ ở thành Tam Thủy.
Cao Lâm xem mà mặt mày trắng bệch, không vì gì khác, mà ngạc nhiên vì trình độ phế vật của quân đồn trú. Cho dù đứng trên tường thành bật mấy cơ quan cọc gỗ cũng tùy tiện quét lui vài ba đợt phản quân chứ? Từ lúc Hoa Bình Dã thu được tin tức đến giờ tổng cộng chỉ qua mấy ngày, Hoàng Vọng Hương lấy bản lĩnh đâu ra mà từ kẻ cầm đầu bạo dân tiến thẳng lên long ỷ như vậy. Ngày đầu tiên đại nguyên soái Đại Diễm đến thành Thúy Cừu đã nhận được loại tin tức quái quỷ này, đúng là rất biết xem ngày lành tháng tốt.
Lương Thú hỏi: “Quân đội đóng ở vùng này tổng cộng bao nhiêu?”
“Cũng là năm vạn.” Cao Lâm đáp, “Do Lữ Tượng quản lý, Vương gia hẳn còn nhớ rõ, gã là cháu trai Lữ đại nhân.”
Bá quan văn võ cả triều đều quen cảnh lâu lâu Lữ đại nhân lại chạy ra trước mặt Hoàng đế can gián Vương gia, từ đại doanh Tây Bắc đến Kiêu Vương phủ ở vương thành Mộng Đô, lôi hết tật xấu nhỏ như đậu xanh hạt mè ra viết thành tấu chương dài tám ngàn chữ. Ngay cả Hoàng thượng cũng cực kỳ đau đầu, nhưng e ngại thân phận nguyên lão tam triều cho nên không tiện làm mất mặt, miễn cho đến một ngày đẹp trời thật sự có chuyện, không dưng bản thân phải gánh thêm một tội danh “tức chết trung thần”. Mà tật dị ứng mấy lão già râu bạc nói đạo lý của Lương Thú gần như cũng từ Lữ đại nhân mà ra.
Thủ lĩnh đóng quân các nơi trên đất Đại Diễm hầu hết đều xuất thân từ đại doanh Tây Bắc hoặc Đông Bắc, chỉ có Lữ Tượng là ngoại lệ. Gã là con cháu thế gia quý tộc, ban đầu vào Ngự lâm quân hai năm, về sau khắp nơi loạn lạc, chỗ nào cũng thiếu người nên tiên đế làm gương tốt cắt giảm một đám thân tín bên cạnh, Lữ Tượng cũng vào lúc đó mà một đường thuận lợi về địa phương nhậm chức.
Tóm lại là kiểu công tử ca không quen chịu khổ.
“Lữ đại nhân ở trong triều thanh liêm đơn giản, cháu trai lão ở ngoài lại rất am hiểu thủ đoạn nuốt quân phí của triều đình.” Cao Lâm đọc lại quân báo lần nữa, đoạn cuối có nói Lữ thống lĩnh đã suốt đêm suất quân đi thành Tam Thủy bao vây tiễu trừ phản tặc, cộng thêm một đoạn dài dằng dặc “thấy chết không sờn” rất vô nghĩa, không biết là bị tin Hoàng Vọng Hương đăng cơ dọa tỉnh hay là nghe thấy Kiêu Vương điện thân chinh đến, cho nên mới vội vàng thực hiện chức trách.
Lương Thú không ngại để tên phế vật kia làm con thí, nhưng sau lưng Lữ Tượng còn năm vạn quân Đại Diễm.
Hắn ra lệnh: “Chuẩn bị ngựa.”
Liễu Huyền An đứng ra: “Để ta đi cùng Vương gia.”
Đại nguyên soái ghét khám bệnh ghét thuốc đắng sợ chích kim, combo học sinh tiểu học à =)))