Cô độc, là một thứ rất đáng sợ, nó gặm nát tâm hồn người sống, khiến họ lang bạt giữa cõi đời, không nơi nương tựa, không một chốn về. Mà điều đáng sợ nhất là, phải tiếp tục cô độc giữa ngàn năm như thế.
Trước đây dù có gặp nhau nhiều lần nhưng mức tiếp xúc giữa Hân Vũ và Tâm Du vẫn chưa thật sự gọi là thân thiết. Giờ đây cả hai bắt buộc phải ngồi trên một chuyến thuyền hàng ngày liền, Hân Vũ cũng phần nào hiểu được nỗi khổ tâm của Hải Kỳ. Một gã tiên nhân luôn e ngại phiền phức như y làm sao có thể chịu đựng nổi cô gái này kia chứ?
Chính vì quá hiểu tính cách của Hải Kỳ, vậy nên lúc này nghĩ đến mối quan hệ mập mờ giữa hai người bọn họ, Hân Vũ lại không kiềm lòng được, kín đáo đưa mắt quan sát Tâm Du ngồi cạnh đang vọc chân vào vũng nước đọng đã đóng ra băng trên sàn thuyền. Mấy ngày nay Tâm Du đều bám lấy cô hỏi chuyện đông chuyện tây. Sau khi Hân Vũ kể tường tận tình cảnh của mình, cô nàng này đã không còn trách cô như trước nữa mà chuyển sang mắng mỏ Quân Tuyết và pháp sư Tần bằng những từ ngữ rất cay nghiệt. Ban đầu Hân Vũ còn hả dạ, song sau đó lại thấy không đúng lắm. Sao cô nàng này lại dám mắng cả cha cô kia chứ?
Hân Vũ thấy Tâm Du đang cuộn tròn trong lớp áo lông, dù lạnh cả người run lẩy bẩy và phải xoa hai tay vào nhau nhưng vẫn nghịch băng, bèn lấy ra một sợi lông chim lửa đặt vào tay cô nàng cho bớt lạnh. Cô còn ẩn thận ếm thêm vài lá bùa chống lạnh xung quanh đó, làm xong hết thảy mới nhận ra mắt Tâm Du vẫn không hề rời khỏi mình. Cái nhìn này khiến Hân Vũ cảm thấy hơi mất tự nhiên, bèn tựa người ngồi xuống bục gỗ. Tâm Du sau khi đắn đo rất lâu, dường như không nhịn được mà kéo tay Hân Vũ, thận trọng hỏi: “Vũ này, em nói thật cho chị biết, em và Hải Kỳ trước giờ, trước giờ…”
Cô không nói được hết câu. Hỏi rồi cô mới cảm thấy vấn đề này quá mức riêng tư, ai lại đi hỏi trực tiếp như vậy bao giờ? Cô cũng biết, trong lòng mỗi người con gái đều có một chút ích kỷ. Cho dù Hân Vũ yêu Kỳ Phong đi chăng nữa, nhưng Hải Kỳ theo đuổi cô bé lâu đến vậy, nếu y có người khác, trong lòng cô bé hẳn cũng chẳng vui vẻ gì phải không?
Hân Vũ quan sát thấy sắc mặt Tâm Du hết trắng rồi lại đỏ, trong lòng cũng hiểu được phần nào, bèn mìm cười nói: “Từ khi em hiểu chuyện thì cụ tổ đã ở bên cạnh em rồi. Anh ấy dạy em phép thuật, tuy hay bắt nạt em, nhưng chỉ cần em bị người khác ức hiếp thì sẽ ra tay trừng phạt họ. Đối với em mà nói, cụ tổ giống như một người anh trai vậy.”
Tâm Du nghe cô nói, có hơi ngỡ ngàng.
Thực ra thông thường Hân Vũ chỉ dùng hai chữ cụ tổ này mỗi khi đối mặt với Hải Kỳ mà thôi. Đó cũng là một cách giúp cô nhắc nhở Hải Kỳ về mối quan hệ của hai người, để y không gây ra những chuyện quá đáng. Lúc này trước mặt Tâm Du, cô lại cố tình nhắc đến hai chữ này một lần nữa. Nhưng thái độ của Tâm Du lại có vẻ nhợt nhạt. Cô nàng cười buồn nói: “Tiếc là em nghĩ vậy, nhưng Hải Kỳ lại không cho là vậy. Chị đã ở bên anh ấy bao lâu, đương nhiên cũng hiểu được tính tình anh ấy. Hải Kỳ ấy từng nói với chị, trước khi gặp em, anh ấy chưa từng rung động với bất kỳ người con gái nào khác. Chỉ có em mới khiến anh ấy có cảm giác có một người nương tựa và dỗ dành. Em cho Hải Kỳ một mái nhà, một chốn để đi về. Chỉ nghĩ chỉ cần là e muốn, cho dù bắt Hải Kỳ hi sinh tính mạng của mình, anh ấy cũng không tiếc. Ngược lại, trong lòng anh ấy, chị lại chẳng là gì cả.”
Môi Tâm Du vẫn nở ra một nụ cười, nhưng sao trong mắt Hân Vũ lại thấy đắng nghét. Cô vỗ vỗ bàn tay vào tay Tâm Du, nhẹ nhàng nói: “Chị đừng nghĩ cụ tổ nhà em tinh ranh lỗi lạc lắm, anh ấy thật ra chỉ là một đứa trẻ trong hình hài người lớn thôi. Thứ anh ấy theo đuổi bao lâu nay, như chị nói đó, cũng chỉ là một chốn để đi về. Anh ấy tìm được cảm giác đó trên người em nên muốn bảo vệ em, cho dù người đó không phải là em thì anh ấy cũng có cảm giác như thế thôi. Đối với người như Hải Kỳ, tình thân quan trọng hơn tất cả mọi thứ trên đời.”
“Nhưng…”, Tâm Du vừa mở lời, song Hân Vũ đã cắt ngang: “Em biết chị khó mà tin được chuyện này, nhưng trước sau gì Hải Kỳ cũng nhận ra thôi, người Hải Kỳ yêu vốn không phải là em, nhưng anh ấy lại cố chấp không muốn thừa nhận. Có đôi khi, trên thế gian này vẫn còn ai đó xứng đáng để cho mình yêu thương và quan tâm mới hạnh phúc biết bao. Cảm giác trong lòng Hải Kỳ đơn giản là như thế. Bởi vì anh ấy chưa tìm được người đó nên cứ mặc nhiên dành hết tình cảm cho em. Nhưng rất tiếc, ngay từ khi còn nhỏ em đã biết rằng chuyện này không thể nào. Em xem anh ấy như anh trai, tình cảm anh ấy dành cho em cũng chẳng hơn em gái là bao. Chị cứ thử tưởng tượng mà xem, chị và Kỳ Phong làm sao có thể thành chứ? Bao năm rồi em vẫn chờ, chờ đợi một người có thể hoàn toàn thuộc về anh ấy, để anh ấy hiểu được cảm giác yêu thật sự là như thế nào. Em đã chờ lâu như vậy rồi, cũng may, cuối cùng chị cũng xuất hiện.”
Trước mặt Tâm Du, chưa bao giờ Hân Vũ lại nói nhiều đến vậy, từng câu từng chữ đều chạm đến đáy lòng, khiến cô gái như Tâm Du cũng không kiềm được mà đỏ mặt. Hân Vũ lại thản nhiêm mỉm cười: “Em nói thật đó, có rất nhiều chuyện người ngoài cuộc sáng, người trong cuộc tối. Em rất hi vọng chị sẽ ở bên cụ tổ, anh ấy cô đơn đã quá lâu rồi, cũng xứng đáng hưởng trọn vẹn hạnh phúc của mình mà.”
Những lời này tuy là nói ra để an ủi Tâm Du, nhưng thực tâm Hân Vũ lại rất mong mỏi trở thành sự thật. Chuyện giữa hai người bọn họ cô chẳng hiểu rõ ngọn ngành, cũng không biết ý tứ của Hải Kỳ là thế nào, nhưng cô nghĩ, Tâm Du tuy láu lỉnh nhưng vẫn có rất nhiều mặt tốt, tính cách lại rất thú vị. Ở bên cô ấy, hẳn là Hải Kỳ sẽ chẳng buồn chán đâu nhỉ?
Đi thêm được hai ngày thì thuyền buồm của họ rơi vào một vùng lốc xoáy. Hân Vũ điều khiến pháp thuật chặn được phần nào cơn lốc, đợi đến khi mây quang bão tạnh, quang cảnh xung quanh lại đột nhiên thay đổi. Lúc thuyền viên chạy đến báo tin thì Hân Vũ đang nhìn đăm đăm vào chiếc la bàn mà pháp sư Tần đeo quanh cổ mình, tâm la bàn đột nhiên hiện lên mấy chữ “Đảo Bình Minh” màu vàng kim rực rỡ khiến Hân Vũ vừa thấy hơi sửng sốt. Biển cả rộng lớn, trước giờ cũng chưa từng có ai đến được hòn đảo này, thế mà cô chỉ đi đông đi tây theo lời hướng dẫn chẳng ra đâu của pháp sư Tần, chẳng ngờ lại thật sự tìm được.
Sau mấy ngày tỉ tê tâm sự, mức độ thân thiết của Tâm Du và Hân Vũ đã vượt qua trước đây rất nhiều. Hân Vũ cho người thả neo, lại lên một chiếc thuyền nhỏ cùng Tâm Du rẽ sóng hướng về phía đảo. Không giống như hai người mong đợi, đảo Bình Minh không giống như những gì người ta mô tả về hòn đảo tiên trong truyền thuyết lắm, thậm chí nơi đây còn có phần xơ xác và hoang tàn hơn cả đảo Rùa. Trên đảo khó khăn lắm mới tìm được bóng dáng một cái hồ nhỏ có cá bơi lội, còn lại đều là đồng khô cỏ héo, cây cối thì hoang toàn rũ rượi. Hân Vũ kéo theo Tâm Du đi dọc quanh đảo, vẫn không thấy gì khác lạ. Thoáng thấy Tâm Du đã thấm mệt, Hân Vũ đành lên tiếng: “Chúng ta nghĩ một lúc rồi đi sang hướng bên kia xem thử.” Nói rồi lại lấy ra một ít thức ăn khô đưa Tâm Du.
Gương mặt Tâm Du đã nhễ nhại mồ hôi, cầm lấy chiếc bánh mà tay cũng run bần bật. Họ đã lang thang cả buổi sáng rồi mà vẫn không tìm được gì, trong lòng cô nàng khá thất vọng. Cắn được một miếng bánh liền ngẩng nhìn Hân Vũ đầy nghi ngờ: “Em chắc đây thật sự là đảo Bình Minh chứ? Không phải là đảo tiên sao? Sao lại hoang vắng thế này?”
Hân Vũ cũng không chắc chắn lắm, mới kéo chiếc la bàn ra để mình và Tâm Du cùng xem. Tâm la bàn vẫn hiện rõ mấy chữ “Đảo Bình Minh” sáng quắc. Lúc này Tâm Du cũng thôi không hỏi nữa, song trong lòng đã thầm mắng pháp sư Tần không biết có lừa gạt mình không.
Nghỉ ngơi xong, hai cô gái lại đi xuyên qua một cánh đồng cỏ khô héo trong lòng đảo. Nơi đây thật sự có dấu tích từng có người sinh sống. Có một ruộng bậc thang nhỏ đã héo úa, một ngôi nhà nhỏ trong hốc đá, có vẻ là nơi canh tác, cứ đi một đoạn sẽ gặp vài con thú nhỏ đang bay nhảy, tất cả đều có hình thù rất kỳ lạ. Tâm Du vốn không thích động vật, lại là những con quái thú thế này, cứ gặp gì đó là lại nấp sau lưng Hân Vũ. Họ đi đến khi trời tối mịch, không còn cách nào khác đành quay về căn nhà nhỏ trong hang đá để nghỉ ngơi.
Nếu như sáng ra Tâm Du còn tràn trề phấn khởi thì lúc này đã hoàn toàn thất vọng. Cô nàng ăn mấy miếng bánh, vừa nằm xuống, chưa kịp hỏi Hân Vũ mấy câu thì đã ngủ thiếp đi. Lúc này bên ngoài trời vẫn âm u từng mảng, cả một bóng một ngôi sao cũng chẳng thấy. Hân Vũ vốn đang ngả lưng vào vách đá nhìn ra ngoài, vừa đưa mắt sang nhìn thấy Tâm Du đã ngủ say như chết bèn cẩn trọng cúi xuống, đọc thêm một câu bùa chú gì đó lên người Tâm Du rồi mới lững thững đứng dậy, cầm lấy lông chim lửa bước đi.
Bên ngoài trời vẫn chỉ là một mảng đêm đen không có điểm cuối. Trừ ánh đèn lông chim lửa ra thì cả một chút ánh sáng cũng không thể nào tìm thấy được. Hân Vũ thở hắt, cánh tay kiên định giữ lấy một sợi lông chim, tay còn lại kéo Thủy Ngân kiếm ra, để ánh sáng màu lam của nó hiện lên mờ ảo. Hai thứ ánh sáng cứ như vậy đối lập, kéo theo bóng Hân Vũ ngả dài vô tận phía sau.
Bước chân Hân Vũ rất chậm rãi, hồ như còn chậm hơn cả tản bộ thông thường. Cô đi một mạch xuyên qua cánh đồng, ngược lại con đường đã đi cùng Tâm Du ban sáng, đến khi trở lại nơi đầu tiên họ bước chân đến mới dừng lại, đột ngột phất tay. Từ thân cây đại thụ to đến hai thước đột nhiên chuyển động, tán cây xào xạc xum xuê như bị một mũi dao xé toạc ra làm hai mảnh, để lộ một tảng đá to cũng chừng đó, phẳng phiu góc gạnh cao đến gần mười thước. Từng chữ từng chữ trên tảng đá bất ngờ phát ra ánh sáng màu lam chói lòa: “Lăng mộ phu thê Hải Lâm tiên nhân và Duệ Phi tiên nhân, chi thứ sáu hoàng thất tiên tộc. Hai con Hải Duệ và Hải Kỳ lập mộ.”
Cùng với luồng quang phổ mới xuất hiện này, đi đến đâu, ánh sáng đột ngột choàng lên cảnh vật nơi đó, nhất thời khiến toàn hòn đảo như thay da đổi thịt. Những cánh đồng khô héo trở màu xanh non mơn mởn, mái đình cong cong hiện lên giữ chừng trời, bầu trời đêm càng lúc càng sáng dần, lộ ra ánh hoàng hôn oi ả bên kia hàng dừa vừa xuất hiện, bãi biển đượm màu tươi mát, cát vàng rực cháy dưới ráng chiều.
Mắt Hân Vũ nhìn theo từng sự đổi thay đó, thật lâu vẫn không có động tĩnh gì. Trước khi đến đây cô cũng không ngờ, cái gọi là hòn đảo tiên trong lời đồn đại, thật ra lại là một lăng mộ khổng lồ.
Hân Vũ không biết bằng cách nào mình lại có thể đặt chân đến đây. Một ngôi mộ được phong ấn bằng phép thuật thế này, thông thường chỉ được mở ra bởi chính người đặt bùa chú. Càng nghĩ, những suy đoán trong lòng Hân Vũ càng lúc càng lớn dần lên.
Cho dù trong lòng phần nào đã có đáp án, nhưng Hân Vũ vẫn nhất thời không muốn thừa nhận. Cô nhét sợi lông chim lửa vào túi trở lại, sau đó siết chặt thanh kiếm trong tay, dần dần bước vào lăng mộ chỉ vừa rõ hình hài.
Ánh sáng xanh từ Thủy Ngân kiếm quá mức rực rỡ, hầu như đối lập với luồng ánh sáng kỳ dị phát ra bên trong đảo. Càng đi vào sâu, cô càng nhìn thấy những con quái thú ban sáng giờ đã phóng lớn lên đến mấy mươi lần, ngạo nghễ nhìn cô, ánh mắt chúng cũng không còn hiền hòa như trước đây nữa. Cùng với mỗi bước chân lại có một bầy quái kéo đến, nhe ra hàm răng nhọn hoắc lao về phía cô, Hân Vũ cũng không nao núng, bình thản phóng ra bùa chú hạ gục từng con một. Cứ thế, hết bầy này ngã xuống lại có một bầy khác tràn lên, những con thú kết hợp đầu thú chân chim cứ thế loạng choạng ngã nhào trong ánh sáng bùa chú nhẹ nhàng rơi vỡ, bắn lên xanh thẳm cả góc trời.
Hân Vũ cũng chẳng biết mình mất bao lâu để vượt qua cánh đồng đó, trên áo cô đã dính đầy máu, cũng không rõ là máu cô hay máu của đàn thú nọ. Hòn đảo này khắp nơi đều bày la liệt tầng tầng kết giới cùng vô số những mê cung uốn lượn sâu thăm thẳm, may thay Hân Vũ vốn giỏi nhất là trò giải mê cung này. Hơn nữa những gì cô biết lại do Hải Kỳ dạy, chẳng mấy chốc đã đi một mạch đến đại điện giữa đảo.
Đại điện này ban sáng đến đây cô và Tâm Du đều không nhìn thấy, nó chỉ xuất hiện sau khi cô cởi bỏ phong ấn trên đảo, lúc này những đình đài gác mái được chạm trổ tinh tế, lại dát vàng óng ánh trông càng rực rỡ trong ánh chạng vạng. Hân Vũ không vội bước vào, tay giương kiếm đối diện với bóng một con nhện khổng lồ đang trườn xuống theo đám tơ chằng chịt.
Con nhện to đến hơn bảy thước, tám cái chân đầy lông lá chống đỡ cái đầu vốn chỉ có đôi mắt to tổ chảng đen kịt. Bình sinh Hân Vũ không ưa nhất là loài vật này, thấy nó nhào đến thì bình thản phóng ra vài tia bùa chú, song con vật cũng không hổ danh là loài thú chặn cửa cuối cùng, chỉ lắc mình mấy cái đã nhanh chóng tránh được. Miệng nó phóng ra một làn tơ khác, nhân lúc Hân Vũ chưa kịp định thần đã cuốn lấy tay cô, đẩy Thủy Ngân kiếm rơi xuống đất.
Nhện nhả tơ rất nhanh, tám chân lại linh hoạt, chỉ mất mấy phút quần thảo đã hoàn toàn trói được Hân Vũ vào trong kén tơ. Mắt thấy nó đang lao nhanh đến định nuốt mình vào bụng, cô lập tức ếm bùa chú gọi Thủy Ngân kiếm. Thanh kiếm đang nằm trơ trọi trên đất bỗng nhiên dựng đứng dậy, lạnh lùng lao thẳng vào cái miệng đang ngoác to của con vật. Nó rú lên một tiếng, miệng bắn tung tóe ra đám nước dãi tanh tưởi, vậy mà vẫn kiên trì lao đến với ý muốn lôi Hân Vũ cùng chết chung, ánh mắt nhìn cô đầy thù hận. Hân Vũ cũng chẳng hề sợ hãi, thản nhiên nhìn cái miệng nó cố sức nuốt mình, song chỉ vừa tới phần chân thì sức lực nó cũng cạn kiệt, giãy ra chết thẳng cẳng.
Hân Vũ giãy giụa một lúc thì kén nhện cũng hơi lỏng ra, liền rút dao bạc xé toạc chiếc kén. Trên tóc cô vẫn còn dính thứ dung dịch nhớt nhợt của con quái thú, mặt bê bết máu nhìn xác con vật gì chỉ còn là một tảng đá đen đã hoàn toàn vô tri, đôi mắt to dường như vẫn nhìn cô đầy căm giận. Cô kéo thanh kiếm ra khỏi xác nó, đoạn lững thững đi vào trong điện.
Đại điện được ếm chú sáng tỏ còn hơn cả ánh mặt trời, dù trong điện chẳng hề có lấy một ngọn đèn nào. Giữa điện chỉ có một chiếc kệ bậc thang bằng vàng óng ánh, trên mỗi tầng đặt những chiếc bài vị khác sau, bên cạnh mỗi bài vị lại có một chậu thủy tinh đựng dung dịch màu lục sóng sánh. Hân Vũ đảo mắt nhìn một lượt, đến tận vị trí cao nhất trên kệ, nơi một chiếc bài vị to cỡ mộ bình thường, lạnh lẽo khắc mấy chữ: “Thiên Tổ tiên nhân, thủy tổ tiên tộc”.
Từ chiếc kệ thứ hai thứ ba trở đi đều là những bài vị có khắc tên, kèm theo thông tin về chi thứ của dòng họ. Đến hàng thứ sáu thì mới đến Hải Lâm tiên nhân và Duệ Phi tiên nhân. Vừa nhìn thấy tên họ, Hân Vũ cũng kính cẩn khuỵu gối xuống, bái lạy ba lạy. Lúc ngẩng đầu lên, đập vào mắt cô chính là dãy bài vị thứ bảy, cũng là dãy cuối cùng. Hàng này có cả thảy tám chiếc bài vị, nhưng vừa thoáng nhìn, Hân Vũ đã nhìn ra một chiếc có dòng chữ mới cáu trên đó: “Hải Kỳ tiên nhân, chi thứ sáu hoàng thất tiên tộc”.
Dòng chữ như một nhát dao lạnh lẽo, từ tốn xé toạc Hân Vũ ra khỏi chút lý trí cuối cùng. Cô cứ đăm đăm nhìn chiếc bài vị một lúc lâu, trong lòng cứ như có một đóa xương rồng vừa nở rộ, từng nhánh gai cứ thế theo đà phát triển đâm vào lục phủ ngũ tạng, chẳng mấy chốc đã máu chảy đầm đìa.
Ngón tay cô bất chợt chạm vào chiếc bài vị vẫn còn ươm mùi gỗ. Từng nét, từng nét chữ khẳng khái mà rất thật. Cô cắn môi đến bật máu, đến lúc cảm giác được cơn đau âm ỉ thì mới chấp nhận được đây chẳng phải một giấc mơ. Từ đây về sau, trên trời, dưới đất, sẽ không bao giờ có người tên là Hải Kỳ nữa.
Dường như từ hốc mắt cô bất chợt rơi ra một giọt nước nóng hổi. Nhưng cô biết, nước mắt cũng chỉ là vật ngoài thân mà thôi.
Hân Vũ không vội rời khỏi gian điện thờ của tiên tộc, thay vào đó, cô kính trọng hành lễ rồi vươn tay, sử dụng tiên thuật để dịch chuyển chậu chất lỏng đặt cạnh bài vị của Hải Kỳ. Tiên tộc vốn ít người thừa kế, sinh mệnh mỗi người đều được gắn chặt với một lời nguyền trong điện thờ tổ. Sau khi họ mất đi, linh khí còn sót lại sẽ trở về nơi này, kết hợp với thuật tiên thời cổ hình thành một chiếc bài vị trong điện thờ. Ký ức của họ bằng cách nào đó cũng được thu về, tích tụ trong chiếc chậu sành đặt cạnh đó. Đây được xem là một cách ghi nhớ những công trạng mà khi vị tiên nhân đó còn sống để đạt được, cũng là lưu truyền đến thế hệ mai sau.
Hân Vũ lẩm bẩm đọc thần chú. Một dải ánh sáng xanh lơ lửng trườn ra khỏi chạy, một đường chạy thẳng đến đầu ngón tay cô, men theo đó phủ lên một lớp xanh lục lên bầu không khí xung quanh. Từ trong đám khói, cô có thể mơ hồ thấy được một hòn đảo tiên nở rộ giữa biển, cây cối trù phú bao bọc căn nhà nhỏ trên chòi cây. Thế nhưng cảnh vật dù đẹp đến nhường ấy, nhưng Hân Vũ cũng nhận ra được sự sống trên đảo này thật ra lại ít ỏi đến đáng thương.
Trên lối vào căn nhà nhỏ chỉ có một cậu bé khoảng chừng ba bốn tuổi, tính theo độ tuổi của loài người. Mái tóc xoăn tít màu nâu, áo chùng xám ngắn cũn cỡn choàng bên trên một chiếc quần bố đã bị cắt xén chỉ đến đùi cậu bé. Cậu đeo chiếc túi choàng qua vai, ngồi chồm hổm bên cạnh một con quái thú đầu sư tử mình khỉ, tỉ mỉ đếm lá: “Về, không về, về, không về…”
Khi đếm đến hết đống lá trên tay, cậu mới buông mấy chiếc lá xuống, bực tức giẫm nát chúng trên sàn đá, gắt gỏng cả với con quái thú: “Không đếm nữa, không đếm nữa. Đếm thế nào thì anh ấy vẫn chẳng về.”
Dứt lời lại thoăn thoắt leo một mạch lên dây thừng, sau đó trèo vào căn nhà gỗ không tiếng động, không hề biết rằng có một người đã quan sát thấy tất cả.
Hân Vũ mắt to mắt nhỏ nhìn theo bóng dáng cậu bé. Từ tính cách cáu kỉnh lẫn gương mặt tròn trĩnh, đôi mắt to sáng cùng mái tóc xoăn kia, cô có thể chắc chắn đây chính là Hải Kỳ khi còn nhỏ, chưa nói đây còn là ký ức của y nữa. Thế nhưng cô quen biết Hải Kỳ bao nhiêu năm, chưa từng nghĩ thì ra lúc nhỏ y lại có dáng vẻ thế này. Tâm tình vừa trấn định lại đột nhiên vỡ òa ra. Cô quay người, cố nén cảm giác xúc động. Lúc ngẩng đầu lên thì cảnh tượng trong dòng chảy ký ức đã đột ngột thay đổi.
Vẫn là cậu bé Hải Kỳ, áo quần chẳng chỉn chu ngồi vắt giò lên thành cầu đá. Chân cậu ngắn cũn, có cố gắng đến mức nào cũng chẳng chạm được đến mặt nước. Lúc này cố mãi không được, cậu tức giận quẳng một viên đá xuống lòng nước, trúng phải mắt con cá khổng lồ đang cố ngoi lên trong hồ. Cá đau đến vội trốn xuống nước, Hải Kỳ lại bật cười ha hả.
Cậu cười đã rồi, nhìn lại xung quanh cũng chẳng còn ai cả. Mặt trời treo trên đỉnh đầu tỏa ánh nắng rực rỡ, Hải Kỳ cúi đầu, nhìn cái bóng của chính mình đã đã gần như biến mất, buồn bực lẩm bẩm: “Cả mày cũng chẳng thèm chơi với tao.”
Hân Vũ quan sát khóe mắt ưu tư của cậu, sóng mũi lại cay cay. Độ tuổi trưởng thành của tiên nhân khác hẳn con người. Nếu con người mười tám tuổi được tính là trưởng thành, thì với tiên nhân ít ra cũng là năm trăm tuổi. Ở độ tuổi này của Hải Kỳ, ắt hẳn y cũng chỉ hơn một trăm tuổi mà thôi. Một đứa bé phải sống hàng trăm năm trong hòn đảo không một bóng người như thế, anh trai lại không có bên cạnh, cô nên nói Hải Duệ tiên nhân quá nhân từ với thiên hạ, hay ông quá tàn nhẫn với đứa em trai này đây?
Cuộc sống của Hải Kỳ khá đơn điệu. Sáng sớm sẽ có muôn thú mang thức ăn và sữa đến cho cậu, bữa ăn cũng không cần phải suy nghĩ. Rảnh rỗi cậu lại tập pháp thuật trong cái thư viện ngập tràn sách mà Hải Duệ tiên nhân để lại, song Hải Kỳ cũng không phải người kiên nhẫn gì, chỉ vừa tập được vài câu thần chú, cậu đã buông sách ra chạy đi chơi. Quái thú xung quanh tuy cung kính, nhưng thật ra lại rất sợ hãi cậu. Hơn nữa cậu có nói gì chúng cũng không đáp trả được, mãi rồi cậu cũng lười nói.
Thi thoảng Hải Duệ tiên nhân lại trở về thăm Hải Kỳ một lần, thường thì chu kỳ phải vài ba năm. Những lúc ấy cậu bé Hải Kỳ lại ngoan ngoãn nghe theo mọi lời anh trai. Từ ánh mắt, Hân Vũ nhận ra câu bé Hải Kỳ rất thần tượng người anh trai này. Có lẽ một phần khác cũng chẳng liên quan gì đến quan hệ ruột thịt, chẳng qua là trong sinh mệnh của cậu, Hải Duệ tiên nhân là sinh vật duy nhất có thể nói chuyện, dùng thứ tiếng rất người để trao đổi với cậu. Sự có mặt của ông giúp Hải Kỳ biết mình không cô độc, tuy rằng sự thật này cũng chỉ rất giới hạn mà thôi.
Mãi cho đến một ngày kia, Hải Duệ tiên nhân trở lại hòn đảo. Lúc dùng cơm cùng cậu, ông đột nhiên nói: “Lần này anh rời đảo, Hải Kỳ đi cùng anh nhé. Em cũng đến lúc nên nhận tổ quy tông rồi.” Trong giọng nói lại mang theo vài phần thuơng tiếc.
Hải Kỳ vốn không hiểu mọi chuyện, hiển nhiên nghe anh trai nói mình có thể ra khỏi đây thì rất vui mừng, cứ thế mang theo mấy món đồ chơi cũ nát, háo hức cùng anh trai rời khỏi hòn đảo. Khi đến rừng Địa Đàng, vừa mới chào hỏi quốc vương tiên tộc và các họ hàng chi thứ khác, đột nhiên Hải Duệ tiên nhân lại nói: “Anh giới thiệu với em một người bạn mới. Từ nay hãy chăm sóc bạn, biết không?”
Đó không phải lần đầu tiên Hân Vũ nhìn thấy gương mặt A Kiều, nhưng là lần đầu tiên thấy được chỉnh thể sống động của cô ấy. Vóc người A Kiều cũng chỉ trạc Hải Kỳ, vừa nhìn thấy con gái, Hải Kỳ có hơi e ngại, vội nép vào sau lưng Hải Duệ tiên nhân. A Kiều nhận ra, khóe môi lại hơi nâng lên, cử chỉ thật chẳng phù hợp với một đứa trẻ mười tuổi chút nào.
Hải Duệ nhận pháp sư Tần làm học trò. Trong lòng những người đàn ông này, dường như chí hướng luôn lớn lao hơn tất cả, chẳng mấy chốc đã vội vã quẳng A Kiều và Hải Kỳ sang một bên. Từ đó Hải Kỳ cũng ở lại rừng Địa Đàng. Cậu bé vốn có thể được xem là một vị tôn tử trong hoàng thất tiên tộc, thế nhưng sự xuất hiện của cậu lại khiến những đứa trẻ khác bực dọc ra mặt. Có lần chỉ vì bắt được một con chim biết nói tiếng người mà một mình cậu bị cả đám trẻ tiên khác bắt nạt. Cậu mặt mày thâm tím trở về, cũng chẳng dám nói ai. Chỉ có A Kiều có thể nhận ra sự khác lạ đó. Tra khảo một hồi, A Kiều dùng ngón tay chỉ lên trán cậu: “Cậu có phải đồ ngốc không hả? Bọn họ đánh cậu, cậu không biết đánh lại sao?”
Hải Kỳ vừa bị đánh, lại vừa bị mắng, bĩu môi phụng phịu: “Đánh rồi. Không lại.”
A Kiều mím môi không đáp lời. Hôm sau lại lôi Hải Kỳ dậy từ sớm, kéo cho bằng được cậu vào mảnh sân mà bọn tiên nhóc thường chơi. Cả hai hì hục mất một buổi, sau cùng cũng thành công một lưới treo gọn bọn nhóc tiên lên cây. Lúc bọn nhóc mắng chửi đến đau cả cổ rồi lại chuyển giọng cầu xin, A Kiều cũng chỉ xoa tay chỉ về hướng Hải Kỳ, bình thản nói: “Xin lỗi cậu ấy, mau.”
Bọn nhóc không còn cách nào khác, đành phải buông lời xin lỗi. Chẳng ai nhận ra ngón tay Hải Kỳ nắm lấy tay A Kiều càng lúc càng chặt. Cậu cúi đầu, có hơi xấu hổ.
Suốt ba trăm năm sau đó luôn là A Kiều ở bên Hải Kỳ, bọn họ hầu như cũng chẳng cần quan tâm đến Hải Duệ tiên nhân hay bất cứ ai khác nữa. Hải Kỳ thì càng một trưởng thành, chẳng mấy chốc vóc dáng cậu đã cao hơn A Kiều một cái đầu. Mà A Kiều thì vẫn là cô gái có gương mặt bé nhỏ của năm đó. Có lần Hải Kỳ bẽn lẽn nhìn A Kiều nói: “A Kiều đừng lo nhé. Mình nhất định sẽ tìm ra phương thuốc giúp cậu có thể trưởng thành.”
A Kiều cười nhạt: “Cậu lo cho bản thân mình trước đi.”
Ở rừng Địa Đàng, thực ra Hải Kỳ chẳng hề chuyên tâm tu luyện pháp thuật, A Kiều thì càng không cần phải nói, tư chất người bình thường khó so sánh với tiên tộc. Chẳng mấy chốc bọn nhóc tiên tộc cũng lớn dần lên, pháp thuật ngày càng cao, lần nào cũng bắt nạt bọn Hải Kỳ đến sức đầu mẻ trán. Lễ trưởng thành năm Hải Kỳ năm trăm tuổi, thiếu niên áo trắng lúc này đã cao lớn hơn cả một người bình thường, y nắm tay A Kiều, trịnh trọng nói: “A Kiều, mình thích cậu. Chúng ta kết hôn rồi trở về đảo Bình Minh nhé. Không cần phải nhìn mặt bọn người đáng ghét này nữa.”
A Kiều quan sát y hồi lâu, sau cùng vẫn quyết định rút tay ra: “Nhóc à, cậu khờ quá. Cậu biết thế nào là thích sao?”
Cậu thanh niên Hải Kỳ ngẩn người, hàng mày lại cau chặt: “Giống như Diệp Tân và Băng Vi, Tùng Tử và Giang Hà, chẳng phải cũng là thích đó sao? Bọn họ sắp kết hôn rồi. Sau này cả đời sẽ ở bên nhau.”
A Kiều thở dài: “ Ở bên nhau là một chuyện, nhưng có yêu nhau hay không lại là một chuyện khác. Chúng ta ở bên cạnh nhau bao năm, cậu có từng muốn bảo vệ mình chưa? Có từng vì mình mà cố gắng? Có tim đập chân run đi đối mặt với mình không? Tất cả đều không có. Cậu nghĩ cậu thích mình, chẳng qua chỉ là vì chúng ta nương tựa vào nhau quá lâu, cậu quá lệ thuộc vào mình. Thứ tình cảm này cũng giống như cậu và Hải Duệ tiên nhân, hay mình và cha vậy đó. Đó là tình thân, tình thân, cậu hiểu không? Những người thân có thể ở bên nhau cả đời, nhưng họ không thể yêu nhau được.”
Nói đến đây, A Kiều lại nhìn về hướng rừng cây: “Lấy ví dụ là Tùng Tử và Giang Hà đi. Tùng Tử thích Giang Hà hai trăm năm rồi, nhưng vẫn một lòng một dạ theo đuổi cô ấy. Thậm chí ngay cả khi Giang Hà từ chối thì cậu ấy cũng vì mấy lời của Giang Hà mà cố gắng. Còn cậu thì sao? Bao năm rồi, chỉ có mình bảo vệ cậu, cậu đã từng nghĩ sẽ bảo vệ mình chưa? Mình dám cá luôn đấy, Hải Kỳ à, trong lòng cậu mình chẳng qua cũng chỉ là chị gái mà thôi. Còn mình, mình làm sao có thể thích một thằng nhóc luôn cần mình bảo vệ chứ?”
A Kiều nói một hơi dài, quan sát thấy sắc mặt Hải Kỳ mới nhận ra mình hơi nặng lời. Cô ngẫm nghĩ hồi lâu, đoạn nắm lấy tay y: “Cậu nghe mình nói đi. Đời người rất dài, nhưng tình yêu thật sự thì chỉ có một. Đừng vì cô đơn mà níu lầm một vòng tay. Đến một lúc nào đó, cậu sẽ gặp được một người mà cậu có thể chấp nhận hi sinh tất cả chỉ đổi lấy một nụ cười của cô ấy. Mình cũng vậy, nếu như gặp được một người như vậy, cho dù có bắt mình chết, đó cũng là bản thân mình cam tâm tình nguyện.”
Hải Kỳ trầm mặc hồi lâu không đáp, khi ngẩng đầu lên, ánh mắt y đã tràn đầy kiên định: “Mình hi vọng cậu nhớ lời cậu nói hôm nay. Khi mình trở lại, mình nhất định có thể bắt cả rừng Địa Đàng này cúi đầu trước mình. Khi đó, cho dù cậu có cần mình, mình cũng không thèm nhìn cậu đâu.”
Sáng hôm sau, Hải Kỳ để lại một lá thư từ biệt cho Hải Duệ tiên nhân, sau đó một mình trở lại đảo Bình Minh, chuyên tâm học pháp thuật. Chẳng ai có thể đoán được một gã tiên nhân lêu lỏng như y lại có thể vì học pháp thuật mà quên ăn quên ngủ như thế. Trong vòng hai trăm năm, y hầu như đã thông thạo tất cả pháp thuật, tiên thuật và thậm chí cả ma thuật tồn tại trên đời. Thế nhưng ngày trở lại rừng Địa Đàng, chàng thanh niên Hải Kỳ lại không thể cười nổi.
A Kiều không đợi được y. Sau cùng cô cũng đã gặp được người con trai khiến cô có thể vì anh ta mà hi sinh mạng sống. Mà anh trai y cũng bị sự cố này liên lụy, từ đó hoàn toàn biến mất khỏi thế gian. Trong một đêm, y mất đi hai người quan trọng nhất của cuộc đời, từ hưng phấn, dần trở nên trống rỗng.
Y ngồi ngẩn người một đêm trước mộ A Kiều, đột nhiên buông ra một tiếng cười rét lạnh: “Đáng đời cậu lắm A Kiều. Ai bảo cậu cự tuyệt mình, lại đòi sống đòi chết đi theo người ta. Giờ thì rõ rồi nhé. Cậu chết mà người ta cũng chẳng thèm liếc mắt tới. Trên đời này, trừ mình ra, chẳng có ai thèm đối xử tốt với cậu đâu.”
Y cười càng lúc càng lớn, âm thanh vang vọng ra đến một góc đảo Rùa. Tiếng cười ai cũng nghe thấy, nhưng những giọt nước mắt rơi xuống thềm đất lại chẳng ai cảm nhận được.
Cuộc đời mỗi người, thật ra đều là một bi kịch. Chẳng qua là họ có muốn phơi bày cho người khác thấy hay không.
Tiên tộc phân tán, cậu thanh niên Hải Kỳ trở thành hậu nhân nam duy nhất còn sống của Hoàng thất. Các quan đại thần trong cựu triều hết lần này đến lần khác tìm y, khuyên y lãnh đạo mọi người giành lại vương quốc. Hải Kỳ mệt mỏi, sau cùng theo chân các tiên nhân khác rời khỏi rừng Địa Đàng, một mình lang thang vô định.
Y cũng không trở về đảo Bình Minh nữa, nửa đời y đã bị giam cầm ở nơi đó, chưa hề nhìn thấy ánh mặt trời ở phương khác là thế nào. Y bắt đầu một hành trình vô định, lang thang đây đó mà không biết đâu là chốn về. Có năm y nán lại một trấn nhỏ, giả vờ mở nhà trọ. Trong lúc vô tình lại nhìn thấy cảnh một thai phụ đang sinh con. Cô ta đau đến mức gượng không nổi, bà mụ đỡ đẻ bối rối thấy y đứng gần đó, bèn quẳng đứa bé vào tay y, nhờ bế giúp. Giây phút đó cứ y đứng lặng thinh nhìn cục thịt đỏ hỏn trong lòng, chẳng có cảm xúc gì.
Tình thân là thế nào? Vì sao không ai dạy cho y biết? Tại sao dù muốn dù không, những người thân đều lần lượt bỏ y mà đi?
Cô độc, là một thứ rất đáng sợ, nó gặm nát tâm hồn người sống, khiến họ lang bạt giữa cõi đời, không nơi nương tựa, không một chốn về. Mà điều đáng sợ nhất là, phải tiếp tục cô độc giữa ngàn năm như thế.
Hải Kỳ rất tò mò về số phận con người. Hễ có thời gian, y lại chạy đến xem tình hình đứa nhỏ mà mình từng bế kia. Nhìn thấy đứa bé dần trưởng thành, lớn lên thành một cô gái xinh đẹp. Lại nhìn thấy cô ấy kết hôn, có con, trở thành bà ngoại, rồi cứ như thế tóc bạc, chân chim, chết đi trong vòng tay người thân.
Thì ra, sự sống, nói cho cùng cũng chỉ ngắn ngủi đến thế mà thôi.
Thế nhưng Hải Kỳ lại không như vậy, y lại là một tiên nhân, mà tiên nhân hầu như bất tử, cho nên chỉ cần không bị giết chết, thì không bệnh không tật, họ cứ sống lay lắt giữa cõi đời như thế. Cuộc sống này, mười năm y còn cảm thấy mệt mỏi, nói chi là ngàn năm.
Hải Kỳ nghiêm túc suy nghĩ lại cuộc đời mình. Loài tiên chẳng ai cần đến y, loài người thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của y là thế nào. Người thân đều đã lìa đời, những người y chú ý, những người y để tâm, đều lần lượt bị hủy diệt.
Mà bọn họ đi rồi, lại chẳng hề để lại cho y thứ gì cả. Thứ y có được chỉ là một đoạn trí nhớ cùng với nỗi đau đớn không cùng.
Y mệt mỏi rồi, chán nản rồi, không muốn phải tiếp tục trì hoãn nữa. Y cần một lý do để tiếp tục sinh tồn. Thế nhưng tìm mãi ba trăm năm, tồn tại dường như cũng chỉ là lời nói tùy tiện của ai đó mà thôi.
Lòng, gần như đã nguội lạnh.
Cuộc sống cũng không hẳn là sống, trong lòng y chất chứa một nỗi tuyệt vọng. Y chẳng qua là đang chờ đợi một cơ hội, một cơ hội để bản thân mình có dịp nói lời từ biệt.
Cho đến một ngày kia, pháp sư Tần đột nhiên đến tìm y. Ông đứng trên cao nhìn xuống y, vừa thương tiếc, lại chậm rãi lắc đầu.
“Hải Kỳ, A Kiều trở lại rồi.”
Lúc đó y biết, chuông linh hồn được đánh thức, sinh mệnh của A Kiều một lần nữa lại tái sinh trong một số phận khác. Có lẽ vẫn là linh hồn đó, khuôn mặt đó, nhưng sẽ mãi mãi không phải là A Kiều mà y từng biết nữa. Hải Kỳ ngẫm nghĩ, vậy còn cô bé kia thế nào. Cô bé đã già, đã chết đi, vậy liệu cô ta có phải cũng được chuyển kiếp một lần nữa hay không?
Trong suốt ba năm, y không hề tìm A Kiều. Cô nàng chết cũng đáng lắm. Ai bảo không chấp nhận y, lại dốc tim dốc phổi ra yêu một con người ngoại tộc như thế. Nhưng cô ấy bắt y miệt mài tập luyện suốt hai trăm năm. Thù này không trả, y làm sao còn gọi là Hải Kỳ?
Cứ như thế, sự tồn tại của Hân Vũ phần nào đó đã níu kéo được sinh mạng của y. Trong lòng y đã từng tuyệt vọng, từng khát khao được quyên sinh. Thế nhưng đứng trước cô, tất cả điều này đều trở thành bong bóng xà phòng. Y nghĩ mình đã tìm được một người có thể vì người đó mà sống, có thể vì an toàn của người đó mà đêm ngủ chẳng ngon, ngày không yên giấc. Song chẳng may, cũng trong chặng đời đó, y lại gặp Tâm Du.
Hân Vũ vẫn đứng lặng thinh nhìn từng dòng ký ức của Hải Kỳ trôi qua mắt. Trong suốt hai mươi năm sau đó, tất cả những kỷ niệm đẹp nhất của đời y đều là dành cho cô. Cô vẫn biết rằng mình rất quan trọng, chỉ là không ngờ đối với Hải Kỳ, mình mới là người quan trọng nhất, quan trọng hơn cả bản thân y.
Những người quá cô đơn, họ lại càng khao khát tình thân xung quanh mình.
Ký ức rõ ràng nhất của Hải Kỳ về Tâm Du là lần đầu tiên cô nàng bị quân Vĩnh Hi bắt được, Hải Kỳ đến giải thoát cho cô. Khi đó Tâm Du vừa nhăn mặt cười hì hì, vừa phủi tay chân, hếch hàm nói: “Tôi biết anh sẽ không bỏ mặc tôi mà.”
Hải Kỳ khịt mũi: “Tôi chỉ đi ngang, tiện đường nên làm việc thiện thôi.”
“Đừng tưởng tôi ngốc nhé. Nhà giam này nằm trong lòng đất. Anh đi ngang qua thế nào được.”
“Tôi nói đi ngang là đi ngang. Cô lảm nhảm nữa tôi cắt mỏ bây giờ.”
Nhìn thấy bóng Tâm Du cứ đi theo Hải Kỳ như thế, chẳng hiểu sao, khóe môi Hân Vũ nở một nụ cười. Cuối cùng cô cũng hiểu được tâm ý của thầy Tần.
Thì ra, ngay từ đầu ông đã biết…
Bắt đầu từ lúc đó, toàn bộ ký ức của Hải Kỳ đều là về Tâm Du.
Y mua bánh cho Tâm Du trước trường thành. Cô nàng lại níu lấy tay y vòi vĩnh. Khi khẽ cốc đầu cô, nhưng sau đó vẫn quay người biến mất, ít lâu sau lại xuất hiện trở lại, cầm theo một túi thức ăn vẫn còn nghi ngút khói.
Y cùng cô nàng tham gia chơi một trò chơi nhỏ trong chợ. Tất cả mọi người đều đoán sai, Hải Kỳ vừa đưa ra câu trả lời, Tâm Du đã ôm chầm lấy y, hôn liên tiếp vào má y mấy cái. Trên gò má vốn trắng nõn lúc này cũng hiện ra những mảng hồng hồng, chẳng biết dấu hôn hay là xấu hổ.
Hân Vũ có thể nhìn ra, Hải Kỳ chiều chuộng và dung túng cho cô gái này lắm thay. Chỉ là dường như y vẫn chưa thể chấp nhận được sự thật này.
Lúc Tâm Du ngỏ lời với y, gương mặt y đỏ ửng. Chẳng mấy chốc thẫn thờ như vừa trông thấy điều gì đó cực kỳ kinh dị. Hai người cứ tần ngần nhìn nhau một lúc, sau cùng vẫn là Hải Kỳ không đấu được, vội vung tay biến mất.
Tối đến, Tâm Du lại đến tìm y.
Dưới ánh trắng bàng bạc soi sáng ngoài cửa sổ, một cô gái ngang tàng như Tâm Du lại có thể ôm lấy Hải Kỳ từ phía sau, vừa khóc vừa nói: “Em biết anh yêu Hân Vũ. Nhưng anh có thể cho em một cơ hội được không? Anh có thể biến em thành Hân Vũ cũng được, em không ngại phải mang trên người tấm mặt nạ của em ấy đâu. Chỉ cần anh đừng coi em là người xa lạ như vậy…”
Thân mình người con trai phía trước run động mạnh. Sau cùng Hải Kỳ cũng không kìm được, cúi người hôn Tâm Du. Trong ánh trăng mờ hồ có thể nhìn rõ, y thậm chí không hề biến đổi nhân dạng cho cô nàng. Hai bóng người cứ thế lẫn vào nhau, dần dần hòa quyện thành một.
Cảnh tượng xung quanh Hân Vũ lại bất ngờ thay đổi. Có lẽ đã chú tâm vào chuyện tình của Hải Kỳ và Tâm Du quá lâu rồi, thế nên lúc này nhận ra người đứng cùng Hải Kỳ lại là Hải Duệ tiên nhân, Hân Vũ có hơi thất thần. Mãi một lúc mới hồi hồn bước đi theo hai anh em họ. Lúc này giọng Hải Duệ tiên nhân lại vang lên rõ mồn một: “Sách Khải Huyền chính là thiên mệnh. Thay đổi thiên mệnh là trái với đạo trời. Hải Kỳ, em có điên hay không vậy?”
Giọng nói Hải Duệ tiên nhân mọi khi đã khá âm vang, lúc này do giận dữ mà càng thêm có uy lực. Vậy mà Hải Kỳ chỉ điềm tĩnh nói: “Trước đây em không cứu được A Kiều. Cho dù nghịch ý trời đi chăng nữa, em cũng phải cứu cho bằng được Hân Vũ.”
“Cứu một mạng phải để lại một mạng đó. Em có hiểu không?”
“Em cam lòng.” Hải Kỳ ngang ngạnh ngẩng đầu. Trong thoáng chốc, Hân Vũ có thể nhìn rõ sự kiên định trong mắt y: “Anh trai à, cho dù cả đời này đi nữa, anh cũng không hiểu được đâu. Trong lòng anh em chẳng là gì cả, đối với anh, tình thân cũng chỉ là một danh từ để gọi mà thôi. Em thì không như vậy. Hân Vũ là một tay em nhìn con bé lớn lên, trưởng thành. Đối với em mà nói, sự sinh tồn của con bé còn quan trọng hơn cả bản thân em. Cho dù phải bỏ ra tất cả vì con bé, em cũng không hề hối tiếc. Nhưng Hải Duệ, anh nhìn lại bản thân mình đi. Anh sống lâu đến từng ấy, đã có ai anh thật sự coi là người thân hay chưa?”
Ánh mắt Hải Duệ tiên nhân thoáng thất thần, nhưng ông nhanh chóng lấy lại sự bình tĩnh tiếp: “Được, em cứ nhất quyết làm theo ý mình. Vậy còn cô bé Tâm Du đó thì sao?”
Hải Kỳ mỉm cười: “Em chỉ xin anh giúp em một chuyện mà thôi, đừng để Tâm Du biết chuyện này. Em sẽ để cô ấy lại Lam Thành. Nếu em có thể trở về, đích thân em sẽ nói với cô ấy. Còn không thì…”
Nói đến đây, khóe môi y lại không kiềm được, khẽ nhếch lên: “Cứ để cô ấy nghĩ em không yêu cô ấy cũng tốt.”
Cảnh vật lại thay đổi một lần nữa. Bấy giờ Hân Vũ đang nằm trong ngôi nhà gỗ trên cây, hai tay thõng xuống. Hải Kỳ cũng chật vật chẳng kém, cả người nhiễu nhại mồ hôi, chân thậm chí nhấc chẳng nổi. Y ngồi tựa vào thành giường, ánh mắt lại nhìn Hân Vũ đang ngủ say, thoáng cười: “Anh biết em tỉnh lại thể nào cũng muốn đi tìm sự thật. Nhưng Hân Vũ à, chẳng có sự thật nào cả. Anh chẳng qua là hi vọng em có thể sống thật tốt. Anh đã sống quá lâu rồi, đến mức cái chết đối với anh chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Nhưng em thì khác, cuộc đời của em, chỉ là vừa mới bắt đầu.”
Nói đến đây, y lại ngồi thẳng dậy, thân ảnh càng lúc càng nhạt nhòa: “Nói ra anh cũng phải cám ơn em. Hân Vũ, để em nói trúng rồi. Trên đời này có thể gặp được một người mà mình cũng yêu người đó, thật sự khó khăn biết bao. Nhưng sau cùng anh cũng tìm được rồi.”
“Chỉ là, vẫn có một chút tiếc nuối. Trước đây mất nhiều thời gian như vậy, thậm chí còn tìm cách tự sát, ấy vậy mà vẫn lê lếch sống đến tận giờ. Lúc đột nhiên có quá nhiều động lực sống, thì ra lại không còn cơ hội…”
Đôi mắt Hân Vũ đã ướt nhòe, nhưng lúc ảo ảnh chập chờn thay đổi một lần nữa, cô vẫn cảnh giác tập trung nhìn kỹ. Hải Kỳ là tiên nhân, y không thể vô lý chết như vậy, ắt hẳn là trong khoảng thời gian cuối cùng đã có gì đó xảy ra. Nhưng Hân Vũ chờ mãi, chờ mãi, đến khi làn khói xanh đã hoàn toàn tan biến hẳn mà vẫn không có ảo ảnh nào khác xuất hiện.
Khói xanh lục lượn lờ trong không khí, sau cùng cuộn tròn, lặng lẽ chui vào trong chậu sành như cũ. Gian điện thờ bất giác lại trở về với sự yên tĩnh thuở ban đầu, không một bóng hình chuyển động, cũng không có giọng nói ngang tàng, hống hách trong trí nhớ của cô nữa.
Mãi cho đến tận phút này, Hân Vũ mới có thể chấp nhận một sự thật, vị tiên nhân tóc nâu có cái nhìn trịch thượng tên Hải Kỳ, từ nay về sau, sẽ không một ai có thể gặp lại anh ta nữa.
Lúc Hân Vũ ổn định lại tinh thần mà quay lại chỗ Tâm Du thì trời đã sáng hẳn, Tâm Du đã tỉnh lại từ lúc nào. Vừa nhìn thấy bóng Hân Vũ thất thểu đi vào, cô nàng vội chạy đến nắm lấy tay cô, vội nói: “Em đi đâu từ sớm vậy? Xem chị tìm được cái gì này?”
Hân Vũ chẳng có tinh thần trả lời Tâm Du, mà cô nàng cũng chẳng mấy để ý đến chuyện đó. Tất cả tâm trí cô đều dồn hết vào trong thanh sáo ngọc đang cầm trên tay, chìa ra trước mặt Hân Vũ: “Em xem kỹ đi, có phải là của Hải Kỳ không?”
Hân Vũ nhíu mày, vừa nhìn đã nhận ra thanh sáo. Pháp khí của Hải Kỳ sao lại có thể nằm đây được? Cô cầm nó lên ngắm nghía một lát, đoạn thận trọng hỏi: “Chị tìm được ở đâu?”
“Đây, ngay đây.” Tâm Du vội vã đáp: “Chị vừa tỉnh lại, nó đã nằm cạnh chị rồi. Còn có một mảnh giấy nữa.”
Cô nàng vội vã đặt mảnh giấy vào tay Hân Vũ. Đó là giấy da loại thường, trên giấy nguệch ngoạc mấy nét chữ chẳng ra hồn: “Đi tu luyện pháp thuật. Trăm năm nữa cũng không về. Đừng tìm tôi.”
Hân Vũ đọc đi đọc lại mảnh giấy mất vài lần mới chắc chắn rằng mình không đọc sai. Ánh mắt cô hơi ngẩng lên, nhận thấy cái nhìn tràn trề hi vọng của Tâm Du, nhất thời không biết phải trả lời thế nào.
Trong tâm trí đột nhiên lại văng vẳng những lời cuối cùng của Hải Kỳ:
“Nhớ là một việc quá mức mệt mỏi. Cả đời này của anh đã dùng để nhớ người khác. Anh không muốn Tâm Du cũng rơi vào tình cảnh như vậy.”
“Cứ để cô ấy nghĩ em không yêu cô ấy cũng tốt…”
Hân Vũ cảm thấy miệng nhạt thếch. Cô muốn nở ra một nụ cười để trấn an Tâm Du, nhưng làm thế nào cũng không cười nổi. Quả quyết như vậy, tàn nhẫn với bản thân mình đến thế, cũng chỉ có thể là Hải Kỳ mà thôi.
Thuyền tới đón Hân Vũ và Tâm Du nửa ngày sau đó mới có thể cập bến. Hân Vũ kéo theo Tâm Du ra thuyền nhỏ, trên tay cô nàng vẫn cầm thanh sáo ngọc của Hải Kỳ, mảnh giấy da lại được gấp gọn gàng ngay trong túi áo. Cố gắng lắm, Tâm Du mới chịu cùng cô lên thuyền nhỏ, ánh mắt vẫn dõi về phía hòn đảo đang dần trôi lại phía sau.
Chiều xuống, thuỷ triều lên, sóng đánh càng lúc càng dồn dập.
Trong khoảnh khắc đó, Hân Vũ quay đầu nhìn lại, chỉ thấy thấp thoáng bên gờ đá có hai bóng dừa cọ sát vào nhau, chở che một chiếc võng đơn điệu đung đưa trong gió.
Thoảng như năm nào đó, có bóng người thiếu niên nằm dưới tàn cây thiu thiu ngủ. Bóng ráng chiều tưới lên gương mặt y, trải dài đến vô tận.