Đừng Bao Giờ Xa Em (Never Leave Me)

Đừng Bao Giờ Xa Em (Never Leave Me) - Chương 1




Năm nay mùa xuân đến vùng Sainte-Marie Des-Ponts sớm hơn thường lệ. Những cơn gió hung bạo từ Đại Tây Dương vẫn quất vào những vách đá dựng đứng cách đó chừng dặm đường giờ đây lướt nhẹ nơi vùng đất trũng của ngôi làng.



Lisette de Valmy rà bàn chân trên mặt đường rồi chống hẳn xuống và từ từ thắng xe đạp lại. Những chậu hoa thủy tiên và hoa nghệ cây đang nở rộ, màu sắc sống động của chúng nổi bật trên nền đá Na Uy xám xịt của những ngôi nhà mới lợp mái. Những sắc hoa rạng rỡ chỉ làm cho cơn thịnh nộ của nàng bừng lên mãnh liệt hơn. Vẻ bình dị, nét đặc trưng của loài hoa giờ đây chỉ còn trong quá khứ.



Nàng dựa xe vào tường quán cà phê rồi đút hai tay vào túi áo khoác và vội vã bước vào tìm Paul.



Anh ta không có đó và ngay cả những khuôn mặt quen thuộc ở quán cà phê cũng biến đâu mất.



Những chiếc ghế dựa vẫn xếp nghiêng vào mé trong cái bàn và chỉ có Andre Cladron, ông chủ quán đứng tuổi với chiếc tạp dề lấm tấm rượu quấn ngang hông và tay áo xắn lên tận khuỷu đang tẩn mẩn đánh bóng những chiếc ly thủy tinh.



− Họ đi đâu hết rồi? – Lisette hỏi, đôi tay nàng nắm chặt đến nổi những đốt tay trắng bệch ra. Lạy Chúa, phải có người nào đó để nàng trút cơn thịnh nộ đang sôi sục trong nàng.



− Ở Vierville. – Andre trả lời vắn tắt. Ông đặt những chiếc ly đã sáng bóng xuống, rồi nhoài người ra quầy rượu dồn hết trọng lượng cơ thể lên hai cánh tay cuồn cuộn bắp thịt và nói tiếp – Tụi Đức đã lùa hết ra bờ biển để xây tuyến phòng thủ từ năm giờ sáng.



Chiếc cằm thanh tú của nàng chợt đanh lại:



− Chúng làm ở Vierville chưa đủ à?



Lisette đưa tay kéo chiếc mũ bê rê đỏ đi lệch phía sau đầu ra và mái tóc đẹp sẫm màu của nàng xõa xuống, đôi mắt nàng long lanh. Chúng đã đào bao nhiêu hầm hố cày nát cả vùng bờ biển để cài mìn.



Andre nhún vai:



− Bây giờ thì tụi nó đang đập mấy căn nhà. Không có cái gì ở khu đó còn nguyên vẹn.



− Quân khốn kiếp! – Lisette chửi rủa đầy ngụ ý, khiến Andre nhăn mặt. Ngôn ngữ của cô gái mười tám tuổi, tiểu thư nhà ông Bá tước De Valmy ngày càng phong phú theo đà yêu sách của quân chiếm đóng.



− Họ phải đi suốt cả tuần lễ, có khi đến cả hai tuần cũng nên. Nếu tôi là cô tôi sẽ tránh vào làng trừ phi Paul nhắn cần gặp.



Một luồng điện chạy dọc theo xương sống nàng. Được cần gặp nghĩa là được ông giáo làng giao công tác đưa tin từ vùng trong đến Bayeux và Trevieres. Nàng phải vượt qua những đi tuần tra của Đức và được báo trước, nếu bị phát giác sẽ lãnh án tử hình. Nàng không biết người nào khác trong vùng khán chiến ở Sainte-Marieđes Ponts, nhưng qua giọng nói của Andre khi ông đề cập đến việc Paul cần gặp nàng, rõ ràng ông nghi nàng làm liên lạc. Dù vậy, ông vẫn là một hội viên năng động của chi bộ làng, nàng không cần biết điều đó và cũng chẳng cần biết vì càng biết nhiều càng phải khai nhiều nếu bị bắt, thế này là tốt nhất. Nàng nhận tin tức của Paul mang đến một quán cà phê ở Bayeux và Trevieres, để mặc chúng trên mặt bàn ngổn ngang, chẳng cần biết chúng được gởi cho ai và ai sẽ đến lấy đi.



Andre cúi xuống, gần nàng hơn và hạ thấp giọng mặc dù không có ai ở đó:



− Ngay ở đây cũng có chuyện xảy ra. Một chiếc Horch màu đen to lớn, ngoài tài xế có kỵ binh đi mở đường. Bà xã tôi đoán là xe của Thống chế Rommel trên đường tới Caen.



Lisette cau mày khiến khuôn mặt trái xoan thoáng mất đi vẻ duyên dáng.



− Không phải Rommel đâu và chiếc xe cũng không tới Caen.



Andre nhướng đôi mày rậm nhìn nàng.



− Đó là thiếu tá Meyer trên đường tới Valmy. – Đôi mắt nàng rực sáng và làn da nơi gò má bỗng căng ra.



Andrea lặng người, đầy sợ hãi.



− Ông ấy cần gì ở cha cô?



Lisette bấu sâu những móng tay của mình vào lớp len dày của chiếc mũ bê rê.



− Lòng hiếu khách. – Andre huýt sáo qua kẽ răng.



Cách đây sáu tháng, Rommel được bổ nhiệm làm tổng thanh tra chiến lũy phòng thủ miền tây với nhiệm vụ bảo vệ tám trăm dặm bờ biển trong các cuộc đổ bộ của quân Đồng minh. Ông ta đặt tổng hành dinh tại La Roche Guyon, vì vậy dân Normandy đã bị cưỡng bách vào các tiểu đoàn công binh để xây dựng bức tường Đại Tây Dương khổng lồ bằng bê tông cốt thép, họ còn phải đóng cọc sắt ba cái một, thành cụm công sự phòng thủ lởm chởm suốt bờ biển và gài hàng trăm bãi mìn.



Dân vùng Sainte-Marieđes-Ponts đã quá quen với sự hiện diện của quân Đức, với những nông trại bị trưng thưởng cũng như bộ chỉ huy Gestapo và SS ở Cherbourg và Caen. Bây giờ lại thêm một thiếu tá đang tá túc ở gia đình Bá tước De Valmy. Hắn len lỏi trong dân chúng để làm gì? Tụi Đảng viên Đảng quốc xã định giở trò gì đây?



− Cô dùng một ly cognac nhé? – Andre quá rõ tại sao Lisette lại nhợt nhạt như vậy.



Nàng lắc đầu, ánh sáng nhảy múa trên những lọn tóc sẫm màu khi nàng quay gót ra về.



− Không, cám ơn ông. Khi nào gặp Paul, ông nhớ cho anh ấy biết về tên thiếu tá.



− Tôi sẽ nói.



Andre lại nhặt miếng vải lên và cầm một cái ly thủy tinh, đôi mắt thoáng vẻ trầm tư dưới đôi lông mày rậm. Lisette đúng là một quân tốt lý tưởng để khám phá lý do tên thiếu tá Meyer đến ngụ tại Valmy và đi liên lạc.



Bàn tay của Lisette vẫn còn rung khi nàng dắt xe đạp ra về. Nàng đã bải cho Andre tụi Đức giờ ở ngay trong nhà nàng. Nhưng điều đó không làm cho cơn giận dữ của Lisette dịu đi chút nào. Suốt bốn năm qua, gia đình nàng đã gặp nhiều may mắn, chính cha nàng vẫn thường nói với nàng như thế. Hầu như các ngôi nhà trong làng đều phải cho lính Đức trú ngụ. Gia đình Leccheveliers ở Vierville chỉ được ở một phần nhỏ trong căn nhà của họ. Còn ở Colleville, cả gia đình Mescadors phải sống chen chúc trong một căn phòng nhỏ giữa lúc tụi sĩ quan tham mưu Đức ngon giấc ngay trong phòng ngủ của họ. Chúng chiếm luôn phòng khách để nghỉ ngơi giải trí và cắm ngặt bọn trẻ gia đình Mescadors không được chơi trong vườn. Chỉ có gia đình Valmy là thoát nạn. Cho đến một tiếng đồng hồ trước đây.



Lisette chụp cái mũ bê rê lên phía sau đầu rồi đạp xe theo con đường chính ra khỏi làng. Cứ đi được vài mét nàng lại phải chào đáp lễ những phụ nữ trong vùng. Họ đang làm những công việc hàng ngày một cách an phận. Họ đi mua sắm, trò chuyện và cố quên sự hiện diện của quân địch nhan nhản trên đường phố.



Lisette chào đáp lại một cách máy móc. Nàng tự hỏi những tên lính đang thơ thẩn nơi những góc phố có nghĩ dân chúng ở đây là những kẻ nhẫn nhục qua vẻ khúm núm bề ngoài của họ hay không.



Nếu nghĩ vậy thì tụi Đức đã đánh giá thấp lòng căm thù sâu sắc của dân Normandy. Một khi quân Đồng minh đổ bộ lên đây, thì từ một người đàn bà già nua như bà Pichon cho đến những học sinh mười một, mười hai của Paul sẽ đứng lên chống lại bọn chúng.



Ngay ở cổng ra vào của làng có một toán lính gác mặc áo choàng ngụy trang. Lisette chạy chậm lại rồi nhảy xuống xe. Một tay giữ xe, một tay kia nàng chìa tấm thẻ chứng minh. Tên lính chẳng ngó ngàng gì đến mà chỉ lấy ngón tay cái gõ nhẹ vào tấm thẻ. Hắn dư biết nàng là ai nhưng lần này hắn muốn tìm hiểu rõ hơn. Bon con gái trong làng cũng khá xinh đẹp nhưng ở Lisette de Valmy có một vẻ gì đó thật đặc biệt. Ngay cả khi trang phục xuề xòa, trông nàng vẫn có nét quý phái, và vẻ kiêu kỳ của nàng khiến hắn bị lôi cuốn. Nàng đang nhìn hắn với đôi mắt khinh khỉnh, cằm hất lên, như thể nàng là người của hoàng tộc còn hắn chỉ là một thứ cặn bã của xã hội. Hắn bước tới sát bên nàng, tay vẫn cầm thẻ chứng minh.



− Này cô có muốn hút thuốc không?



Lisette nắm chặt tay lại như muốn bóp nát ghi đông. Nàng chỉ trả lời bằng ánh mắt tóe lửa. Đó là một đôi mắt tuyệt vời vương màu sương khói của vần đá thạch anh với riềm mi dài lượn theo đường cong tuyệt đẹp của đôi mắt. Hắn thấy người như nóng bừng lên. Nàng đúng là loại gái Pháp mà đàn ông thường mơ ước còn đám tướng lãnh Đức ở Paris sẽ nâng như nâng trứng. Nàng cài chiếc lược ở một bên để tóc khỏi rũ xuống, nhưng lọn tóc xoăn nhẹ xoã xuống ngang vai, phần còn lại của mái tóc được chiếc mũ bê rê đỏ sẫm nằm chênh vênh giữ lại như muốn trêu chọc.



Tên lính đành cười xòa và nói bằng thứ tiếng Pháp khó ưa.



− Cô qua đi. Nhưng nhớ phải thân mật chút xíu chớ.



Giọng Lisette lạnh băng, chỉ có đôi mắt nàng quắc lên.



− Tôi thà chết còn hơn làm bạn bè với một người Đức.



Đám lính cười rộ lên làm tên lính cụt hứng. Con nhỏ này tưởng nó là trời chắc? Nó dám nói với mình như một gã nhà quê. Tụi Pháp chết tiệc này còn làm tàng. Chúng phải biết ai là kẻ chiến thắng chứ? “Queggchen”. Hắn gầm gừ rồi giúi tấm thẻ trả lại cho nàng. Rồi sẽ có ngày. Khi nào tên sĩ quan tham mưu của hắn không cần đối đãi đặc biệt với đám địa chủ trong vùng nữa, hắn sẽ cho con bé biết tay.



Lisette tiếp tục đạp xe qua một chiếc cầu đá. Những chiếc cầu này đã làm thành tên ngôi làng. Nàng đi qua những con đường có bờ giậu hoa, rồi qua khu rừng sồi để về Valmy.





Sáng nay, khi chiếc xe trinh sát chạy ào ào trên lối đi trải sỏi tại lâu đài Valmy làm đá bắn tung tóe và còn cố chạy thêm một khúc trước khi phanh lại nơi cửa. Lisette đang dùng bữa sáng với ông Bá tước. Marie, cô giúp việc duy nhất ở lại với họ, lo lắng ra mở cửa và đưa hai người đàn ông vào phòng. Lisette đứng sau cha, tuy nàng vẫn còn cầm khăn ăn nhưng cổ nàng đã nghẹn lại khi tên sĩ quan giở chiếc mũ lưỡi trai hành quân ra kẹp dưới nách và lạnh lùng nói:



− Từ 19 giờ sáng nay, lâu đài Valmy sẽ thuộc quyền sử dụng của ngài thiếu tá Meyer. Có lẽ sự hiện diện của ngài thiếu tá sẽ không gây trở ngại gì chứ, thưa ngài Bá tước?



Lisette thấy gân cổ cha nàng co giật khi ông trả lời:



− Không hề gì, thưa trung úy. Nhưng ngài thiếu tá có đem theo tùy tùng không?



Viên trung úy lướt mắt qua những tách chén bằng bạc trên bàn ăn, rồi các bức tường được trang trí bằng thảm dệt từ thế kỷ mười sáu và đến những phần đã phai màu trên tấm thảm Anbason. Ngài thiếu tá đã có một chỗ trú chân rất thoải mái. Hắn hỏi ông bá tước một cách dứt khoát:



− Ngài có đầu bếp không?



Từ khi lính Đức chiếm đóng Normandy, hàng ngàn đàn ông và phụ nữ từ mọi vùng mọi xóm đều bị bắt đi lao động công trường, vợ chồng ông bà đầu bếp có tên trong số người bị mất tích và chẳng ai nghe tăm hơi họ nữa. Lisette lại thấy cổ cha bị giật.



− Không, bây giờ vợ tôi phải làm bếp.



− Vậy thì bà nhà cũng có thể nấu luôn cho ông thiếu tá.



Đôi mắt xanh lơ của viên trung úy ngắm nghía chiếc khăn trải bàn viền đăng ten và mẫu thêu trên khăn ăn của ông Bá tước. Hắn biết chắc bà Bá tước là một phụ nữ Pháp thanh lịch, hạng người sang trọng quý phái không chút ngụy tạo. Nếu một phụ nữ Đức được đưa ra so sánh hẳn sẽ rất vụng về. Hắn nói thêm:



− Và có thể luôn cả việc giặt giũ nữa.



Hắn có vẻ khoái chí khi thấy điều này làm ông bá tước giận tím mặt, Verdamt Gott; Nếu mà hắn được bố trí công tác ở đây thì bà bá tước sẽ còn nhiều công việc nữa chứ không phải chỉ có thế thôi.



Hắn sỗ sàng nhìn cô gái phía sau ông Bá tước. Nàng khoảng mười tám tuổi, có lẽ mười chín tuổi cũng nên, đúng là một trái ngon chín mọng chờ người đưa tay hái. Mái tóc sẫm màu óng ả phủ xuống vai, chếch dần lên ở hai bên ôm lấy những đường nét tuyệt mỹ của đôi má. Miệng nàng đỏ thắm, khóe môi hơi trễ xuống khiến nàng có vẻ yếu đuối nhưng lại mời mọc quyến rũ, đường nét thanh tú của chiếc cằm lại toát ra sự bướng bỉnh khiêu khích. Đôi mắt hắn lướt xuống người Lisette, một bộ ngực đầy đặn với chiếc eo thon mảnh, những đường cong mềm mại ẩn hiện dưới lớp vải tqueed của chiếc váy. Hắn thấy trong người nhộn nhạo, thế này thì ngài thiếu tá Dieter Meyer khó lòng tìm được sự thư thái trong công tác mới này.



Nhưng giờ đây, hắn đành phải giập gót giày và đi mũ lên.



− Xin chào ngài Bá tước.




Hắn nhận thấy cô gái đang nhìn hắn với vẻ ghê tởm. Nàng chẳng màng che giấu điều đó nhưng hắn lại cảm thấy thích thú hơn, ở đâu cũng gặp toàn sự khúm núm.



Khi cánh cửa đã khép lại, Lisette nghèn nghẹn hỏi cha:



− Mình không thể từ chối sao ba? Ba không thể phản đối à?



Khuôn mặt dài ốm yếu của ông Bá tước tối sầm lại:



− Vô ích thôi Lisette à, không còn cách nào khác.



Nàng quay đi vì quá yêu cha nên không muốn ông nhìn thấy sự thất vọng trong mắt nàng. Nhưng theo Paul Gilles, họ vẫn còn cách đối phó, bị chiếm đóng không có nghĩa là đầu hàng. Nhưng cha nàng cho rằng điều đó quá nguy hiểm. Ông đã chứng kiến bao chuyện xảy đến cho những người vô tri khi tụi Đức khám phá ra những thành viên của quân kháng chiến trong gia đình họ. Ông không muốn vợ con bị liên lụy vì ông. Bá tước Henri de Valmy cố gắng làm một bậc anh hùng.



Dòng họ ông có phả hệ từ sáu trăm năm nay. Khi vua Chales Vii làm lễ đăng quang, dòng họ de Valmy đã hiện diện tại thánh đường Paris. Họ đã tham gia cuộc chiến một trăm năm, các hiệp sĩ Anh quốc dưới triều vua Henry V đã tràn ngập vào khu thành cổ xưa với gươm dài giáo nhọn. Và những lâu đài tráng lệ thuộc dòng họ de Valmy được xây dựng từ thế kỷ mười sáu theo kiến trúc Phục Hưng Ý vẫn vững chắc trong các cuộc tấn công ác liệt của các triều đại. Có lẽ bọn Đức là tên cuối cùng trong danh sách bọn xâm lược, ông Bá tước thầm nhủ. Điều cốt yếu để dòng họ Valmy có thể tồn tại là khả năng chịu đựng và sự kiên nhẫn.



Đi hết khu rừng sồi, Lisette ngừng xe lại. Trước mắt nàng là Valmy với những khung cửa sổ dài và thanh nhã đang phơi mình trong nắng mai. Cha người đã lầm. Họ không thể chỉ ngồi yên và chờ đợi, phải chống lại bọn chúng và nàng sẽ chiến đấu bằng bất cứ giá nào. Cuối con đường xe chạy vào nhà nàng trồng hai hàng cây đoạn rồi đến khoảng sân nhỏ trải sỏi. Nhưng nàng chẳng còn lòng dạ nào khi thấy chiếc xe Horch khổng lồ đen bóng đậu trước hai cánh cửa to lớn bằng gỗ sồi. Hắn đã đến và hiện giờ hắn đang làm ô uế căn phòng đẹp nhất của nhà nàng.



Nàng phẫn uất phóng lên yên đạp một mạch ra bờ biển. Trên các triền dốc giờ đây đầy những hàng rào kẽm gai, những công sự bê tông và hầm hố khổng lồ nối nhau thành hàng dọc. Nhưng nàng chẳng buồn để ý đến nữa. Nàng đang cần sự tĩnh mịch. Bãi biển chạy dài với những vách đá lộng gió mang đến cho nàng cảm giác đó khi nàng còn là một đứa trẻ. Nàng phóng xe ra khỏi lối đi và chạy trên khoảng đất ghồ ghề dày đặc cỏ gấu. Gió biển giật tung mái tóc của nàng quật vào mặt nàng rát như kim châm. Cách đó khoảng trăm mét là một công sự bê tông xám ngoét xấu xí có một toán lín đang tụ tập bên ngoài, lưng quay về hướng gió. Chúng sẽ bắt nàng dừng lại nếu thấy nàng lớ ngớ ở đây. Cả hai năm nay, chúng không cho ai lảng vảng ngoài bãi biển, chỉ có những người bị cưỡng bách lao động mới được phép đến gần.



Lisette tiếp tục phóng xe một cách thách thức. Khốn nạn, đây là dốc đá của nước Pháp, đây là bờ biển của nước Pháp, nàng sẽ đi đến nơi nào nàng thích. Nhưng sự thách thức của nàng bị chặn lại bởi dây thép gai cao gần hai mét chăng theo dọc bãi xa tít tắp. Không hề giống một cô tiểu thư, nàng ngừng phắt lại, vứt chiếc xe lên bãi cỏ rồi ngồi bó gối cạnh đó. Bên kia hàng rào kẽm gai, mảnh đất bị trưng thưởng gài đầy mìn nhấp nhô cho tới một dải trắng như vôi, đó là đỉnh cao nhất. Từ đó, những vách đá chạy ra biển với tốc độ gần như dựng đứng. Xa xa, phiá bên trái là sườn đá trắng như bạc của mũi Pointê. Nó đâm thẳng ra vùng nước xám xanh của eo biển. Anh quốc như một cây kim khổng lồ bằng đá. Xa hơn nữa là cửa sông Vire rộng lớn ngút ngàn ngoài tầm mắt. Bờ biển nhẹ nhàng lượng quanh Vireville về phía bên phải cho tới St.Clair và St Honourine. Hiện giờ, những khu làng nằm dọc theo bờ biển vẫn còn thưa dân cư nhưng bọn Đức đã đuổi họ đi nơi khác và bờ biển nước Pháp thành một bức tường phòng thủ kiên cố.



Lisette trừng mắt nhìn vào hàng rào kẽm gai và những ngầm thép khổng lồ chi chít trên bãi biển đầy bùn. Rommel đã phí công vô ích: nếu quân Đồng minh đổ bộ, họ sẽ không đến Normandy mà sẽ tràn đến nơi eo biển hẹp của Anh quốc giữa Dover và Clis. Cha nàng đã giải thích cặn kẽ điều đó. Ông còn chỉ rõ cho nàng trên bản đồ những thuận lợi của quân Đồng minh khi họ đâm ngang miền Bắc nước Pháp để đến vùng trung tâm sông Ruhr.



Bỗng dưng đôi mắt nàng như mờ lại. Nàng hiểu rằng cha nàng cũng ao ước quân Đức bị bại trận như nàng, nhưng ông sẽ lo sợ nếu biết sự liên hệ của nàng với quân kháng chiến. Một con chim biển cất tiếng kêu giọng khan đục. Nàng rẫu rĩ nhìn nó. Cha nàng hẳn sẽ cấm nàng ra khỏi nhà nếu ông biết chuyện đó. Còn hiện giờ nàng vẫn đi lại thoải mái, ngay cả tụi Đức cũng hiếm khi làm khó dễ với nàng. Nàng là ái nữ của một địa chủ trong vùng, một thiếu nữ từ thiện tầm thường thăm viếng những người bệnh hoạn nghèo khó ở Sainte-Marieđes-Ponts và các vùng lân cận, vì thế sự xuất hiện của nàng cùng chiếc xe đạp trên những con đường làng là hình ảnh quen thuộc ít gây sự chú ý. Nàng gặp nhiều may mắn vì từ trước đến giờ, một liên lạc viên khó lòng kéo dài công việc được tám tháng. Nàng đã lừa dối người nàng tôn kính nhất trên đời suốt tám tháng nay. Nàng thở dài và cảm thấy sự thù ghét sự cô lập mà công việc đã phủ lên nàng, nhưng không còn cách nào khác.



Mặc dù trời có nắng, những cơn gió tháng hai vẫn còn rét buốt. Những ngọn sóng giận dữ đập vào vách đá, không ngừng bào mòn chúng qua năm tháng. Lisette miễn cưỡng đứng dậy, những ngón tay bị giá lạmh làm tê cóng khi nàng nắm lấy ghi đông. Lần đầu tiên trong đời nàng không muốn trở về ngôi nhà thân yêu. Nằm giữa những dốc đá và cánh rừng, toà nhà của gia đình Valmy là một lâu đài nhỏ bằng đá xám, có cả một tòa tháp, mái lợp ngói. Ngọn tháp nằm chếch về phía Bắc của lâu đài. Vào mùa hè cả khu vườn rập rờn những cánh hồng. Đẹp đẽ và đáng yêu như vậy mà bị chê là quá nhỏ không thể đặt bộ tham mưu cho quân đồn trú tại địa phương. Vì thế họ đã dành cái đặc ân mờ ám ấy cho trang viên to kềnh và xấu xí của gia đình Lechevaliers ở vùng ngoại ô Vireville.



Lisette phải chạy qua một bãi cỏ rộng mới đến con đường hẹp. Mấy tên lính vẫn ngồi ngoài công sự, chúng khom người xuống như đang chơi bài. Nàng thấy ghê tởm bọn chúng nên quay mặt ra hướng khác. Thế mà giờ đây nàng phải va chạm thường xuyên với một tên trong bọn chúng, một tên thiếu tá nghênh ngang, vênh váo.



Sự thù hận sôi sục trong lòng khiến cơn gió đối với nàng chẳng còn lạnh lẽo gì nữa. Nàng nhất quyết không nói chuyện và ngó ngàng gì đến hắn; kể như hắn không hiện diện trong nhà nàng. Nàng ngừng đạp mặc cho chiếc xe trượt xuống con đường hẹp. Mé bên phải trôi theo triền dốc là một khu rừng sồi và xuyên qua những nhánh cây đang nẩy chồi nàng có thể thấy hình dáng thon nhọn như búp măng của tháp chuông ngôi nhà thờ nhỏ ở Sainte-Marieđes-Ponts và những mái nhà xám tĩnh mịch trong làng. Từ ngày bị chiếm đóng ngôi làng nép mình trong lòng chảo của vùng đất trũng, phía sau lưng những dốc đá cao che chở như mong được bảo vệ. Và lâu đài Valmy như một vọng gác giờ đây cũng bất lực với chính mình, quân thù không chỉ ở ngôi làng ngoài ngõ, chúng đã vào tận nhà trong rồi.



Mẹ nàng đang ngồi viết thư ở chiếc bàn giấy chạm trổ tinh vi kê nơi phòng khách phía trước. Bà ngẩng đầu lên khi nghe tiếng chân Lisette bước vào. Lòng nàng đau xót vì khuôn mặt với đường nét thanh tú của mẹ giờ đây trông nhợt nhạt và căng thẳng.



− Mẹ gặp hắn chưa?



− Gặp rồi.



Bà đặt bút xuống. Lisette đi ngang qua phòng đến bên lò sưởi đang cháy bùng. Nàng chống tay vào bệ đá cẩm thạch của lò sưởi đăm đăm nhìn ngọn lửa. Cả một lúc lâu không ai lên tiếng. Không khí đầm ấm của gia đình Valmy không còn nữa. Dường như gió lạnh đã xuyên qua những bức tường dày thâm nhập vào tận đây.



Mẹ nàng bỏ hẳn lá thư. Nó không quan trọng lắm vả lại bà đang nhức đầu. Bà đứng dậy. Đó là một phụ nữ cao, thanh nhã, tấm lưng thon thả dài và thẳng, hông nhỏ. Vẻ đẹp của bà là ở khung xương hoàn hảo. Đó là đường nét hoàn mỹ của mái đầu, hai bên thái dương và cả nét thanh thoát nơi chiếc mũi hơi khoằm. Nhưng Lisette không cảm nổi mái tóc bạc và đôi mắt sáng lạnh lùng của bà.



Bà ngồi xuống chiếc ghế bành sâu bọc vải hoa sặc sỡ gần lò sưởi, bàn tay đẹp khoan thai đặt vào lòng.



− Ông ấy rất trẻ. – Bà nói, giọng không lộ chút cảm xúc.



Lisette nhún vai, nàng không quan tâm đến chuyện hắn già hay trẻ. Điều đó chẳng làm thay đổi sự hiện diện của hắn. Một kẻ xâm lược. Khúc củi trong lò bỗng sáng lên nổ lách tách.



− Hắn ở trong những phòng nào hả mẹ?



− Dãy phòng của ba.



Lisette nhảy dựng lên, nàng sửng sốt lảo đảo…



− Ba con nghĩ rằng những phòng đó đủ tiện nghi nhất. – Giọng bà xúc động mãnh liệt.



Bàn tay Lisette bấu chặt mép lò sưởi bằng cẩm thạch. Mẹ nàng hiếm khi để lộ tình cảm của mình. Sự tự chủ đối với bà là một đức tính quan trọng. Nhưng giờ đây bề ngoài lạnh lùng đó bị rạn nứt, điều đó biểu lộ lòng căm thù sâu xa nơi bà khi chính bà là người mang quần áo và vật dụng của chồng ra để dọn dẹp lại dãy phòng đó cho thiếu tá Meyer.



− Lạy Chúa, con ao ước quân Đồng minh đến đây biết bao.




Lisette căm phẫn nói, nàng lấy mũi giày đá vào một khúc củi cháy dở làm các tàn lửa bắn tung tóe lên tận ống khói.



Mẹ nàng liếc nhanh ra cửa.



− Này cưng, cẩn thận con! Đây không phải là lúc nói những chuyện như thế đâu.



Lisette cảm thấy ân hận vì giọng điệu hoảng hốt của mẹ. Nàng đang làm mọi việc tồi tệ hơn chứ không tốt hơn, nàng tiến về phía mẹ, quỳ xuống cạnh ghế và nắm lấy tay bà.



− Con xin lỗi mẹ, con sẽ cố nhịn, nhưng thật là quá khó khăn vì con căm ghét chúng đến tận xương tủy.



Bà Bá tước buồn rầu nhìn nàng. Con gái bà trẻ đẹp, quý phái. Đáng lẽ nàng phải được hưởng thụ, tham dự tiệc tùng, khiêu vũ, viếng thăm Paris và Riverra, được những người đàn ông trẻ trung có tư cách săn đón. Đáng lẽ nàng phải được ngụp lặn trong tình yêu chứ không phải hận thù. Bà thở dài, tự hỏi cuộc đời họ sẽ bị chiến tranh tàn phá bao nhiêu năm nữa, những năm tháng mà Lisette sẽ không bao giờ kéo lại được.



− Có lẽ hắn không ở đây lâu đâu. – Bà nói, giọng thiếu tin tưởng.



Lisette chăm chăm nhìn ngọn lửa, đôi mắt trầm tư.



− Con thắc mắc sao hắn lại tới đây. – Nàng chậm rãi nói – Có điều gì là lạ.



Mẹ nàng nhún đôi vai mảnh dẻ.



− Hắn là người Đức. Chúng ta cần biết gì nữa?



Lisette không đáp. Câu trả lời bây giờ chỉ gây ra phiền muộn. Nàng hiểu có vài người muốn biết lý do thiếu tá Meyer được cử. Đó là những người như Paul Gilles và các bạn anh ta, những người như nàng. Nhưng thôi để dịp khác, giờ thì nàng không thể chia sẻ ý nghĩ của mình với ai được.



− Con pha trà mẹ nhé.



Nàng đứng lên và tự hỏi không biết bao giờ mới thường xếp gặp Paul được. Nàng đã hiểu Paul muốn mình làm gì.



Bữa tối trôi qua lặng lẽ. Cha mẹ nàng không ai muốn trò chuyện. Dường như sự hiện diện của thiếu tá Meyer trong ngôi nhà đã tác động mạnh đến họ mặc dù hắn không có mặt tại phòng ăn. Bà Marie dọn món trứng chiên, khuôn mặt khó chịu cau có khi bà đặt đĩa lên bàn. Bá tước Henri de Valmy nhận thấy nhưng ông cố nén tiếng thở dài bực bội. Khi ông mới chào đời, bà là một cô gái nhỏ giúp việc cho cha ông. Bà đã từng đỡ ông dậy khi ông ngã, phạt ông khi ông có lỗi rồi lại lau nước mắt, vuốt ve dỗ dành ông. Về sau này, khi ông đã trưởng thành, bà đối xử với ông hết mực cung kính. Bà cho rằng ông là người toàn quyền và tin tưởng hoàn toàn những gì ông muốn làm. Hẳn là ông có thể đơn thân độc mã đóng cửa lại, không những chỉ đương đầu với tên thiếu tá Meyer mà còn đối với toàn thể bọn Đức nữa.



Ông tự rót cho mình một ly rượu và vui mừng khi thấy hầm thực phẩm của gia đình vẫn còn đầy. Ông tự nhủ họ nên cám ơn số phận vì vùng Normandy không phải chịu đựng nạn khan hiếm thực phẩm đang làm điêu đứng những miền khác của nước Pháp. Bơ, phó-mát, trứng vẫn còn đầy. Dù phải cung cấp thực phẩm cho quân Đức, dân chúng vẫn còn gà cho vào nồi, vẫn còn bơ và sữa. Những ngón tay ông nắm chặt chân ly rượu. Ông chưa phải gian khổ trong chiến tranh và mặc cảm tội lỗi trỗi dậy trong ông. Ông không có con trai để đối mặt với kẻ thù trong cuộc chiến đấu của đoàn quân giải phóng nước Pháp. Bản thân ông cũng không tham gia và bị một vết thương chiến tranh nào. Ông vẫn ở lại đây, bình yên với vợ con trên vùng đất của mình.



Ông đẩy dĩa thức ăn ra, món trứng chiên ông chỉ nếm qua. Khó lòng mà gọi đây là đất của ông được nữa khi nó đang ở dưới gót giày của quân Đức. Sự bất lực của ông làm ông giận dữ, không có cách gì để làm nguôi ngoai sự thất vọng. Ông hùng hổ đứng dậy, không màng đến ánh mắt sửng sốt của bà vợ và cô con gái. Ông đột ngột xin lỗi họ rồi bước ra. Lisette lo lắng định chạy theo cha nhưng mẹ nàng đã đặt bàn tay lạnh lẽo lên cánh tay nàng cản lại.



− Đừng, con. Ba con đang muốn ở một mình. Cứ để cho ba yên.



Cánh cổng đóng sầm lại sau lưng ông Bá tước và họ có thể nghe tiếng chân ông băng qua đại sảnh hướng về phòng đọc sách. Hai mẹ con nhìn nhau rồi lặng lẽ tiếp tục bữa ăn.



Lát sau, khi họ ngồi trong phòng khách phía trước, Lisette lại thắc mắc tại sao thiếu tá Meyer đến Valmy trú ngụ. Có thể hắn đã được giao một công vụ đặc biệt. Andre đã nói rằng chiếc xe Horch của hắn có kỵ binh hộ tống, chứng tỏ hắn là nhân vật quan trọng. Những tia lửa bắn toé ra cùng với tiếng kêu lắc rắc của thanh củi, mùi gỗ thông tỏa ra khắp căn phòng có trần cao. Mẹ nàng đang chăm chú trên mảnh vải thêu, một nét cau mày hằn lên vầng trán phẳng của bà. Lisette cố gắng tập trung vào cuốn sách nàng đang đọc, nhưng vô ích. Quân Đồng minh đang thất vọng qua những tin tức về chiến lũy phòng thủ bờ biển. Có thể công trình này là nguyên nhân cho sự hiện diện của thiếu tá Meyer tại đây… Cuốn sách bỗng tuột ra khỏi tay nàng. Thiếu tá Meyer đang chiếm dãy phòng của cha nàng, phòng ngủ và phòng làm việc.



Có tiếng bước chân lộp cộp trên nền đá đen trắng từ phòng đại sảnh vọng lại, những bước chân rắn chắc, quả quyết mà nàng chưa bao giờ nghe thấy. Mẹ nàng ngừng thêu, bàn tay cầm kim vẫn đưa cao, mắt bà nhìn về phía cửa. Một khoảnh khắc im lặng, đột ngột kéo dài rồi có tiếng cánh cửa phía ngoài nặng nề mở ra và đóng sầm lại. Vài giây sau, chiếc xe Horch nổ máy.



Rõ ràng là mẹ nàng thấy nhẹ nhõm khi tên thiếu tá không bước vào đây, nhưng Lisette chẳng còn tâm trí đâu để chia sẻ với mẹ. Thời gian đầu , Meyer chỉ ở Valmy một mình, nhưng nó sẽ kéo dài bao lâu? Chắc chắn rồi đây hắn sẽ cần một vệ sĩ và căn phòng của hắn lúc nào cũng có người, nàng sẽ không bao giờ gặp cơ hội thuận tiện như thế này nữa.



− Con đi ngủ sớm đây, mẹ ạ! – Nàng đứng dậy.



Chiếc áo len dài tay màu xanh cùng chiếc váy sậm màu hơn đã tôn thêm màu mắt xanh lấp loáng từ mái tóc sẫm màu của nàng.



Nàng nhẹ nhàng hôn mẹ, thầm ước mình có thể an ủi bà rồi bước nhanh về phòng. Nàng không thể chần chừ, nếu bị bắt gặp nàng có thể ngụy biện là định vào tìm cha vì đây là phòng làm việc của ông ấy và hẳn là hắn chỉ mới đến sáng nay.



Cửa phòng đọc sách vẫn khép kín hẳn là cha vẫn đang trăn trở về những chuyện xảy ra trong ngày. Marie đã đi nghỉ sớm. Chắc bà ấy đang nằm trên giường và ủ những ngón chân mang chứng tê thấp trên bình nước nóng.



Những bậc cầu thang đá uốn vòng lên. Một ngọn đèn dầu đặt trên một trong những bệ nơi các cửa sổ hình vòng cung xây lõm sâu vào trong tường tỏa ra một ánh sáng dịu mắt. Nàng vội vã đi ngang khung cửa đó và bước lên nền nhà thuộc dãy phòng của cha nàng. Nàng ngần ngừ trước cửa phòng ngủ rồi bỏ qua. Nàng phải gấp rút lên, các tài liệu có khả năng nằm trên bàn giấy của phòng làm việc hơn là ở chiếc bàn con cạnh giường ngủ vì hắn đã sử dụng đến phòng ngủ đêm. Nàng dừng lại nơi cửa phòng làm việc, có thể nói đã bị khóa, chắc chắn rồi. Không dám thở mạnh, nàng vặn nắm đấm cửa và đẩy vào. Cánh cửa mở ra dễ dàng, không do dự nàng bước vào và đi ngang qua căn phòng ngập ánh trăng tới chiếc bàn giấy Biedermeider của cha. Trông nó gọn gàng chứ không như mọi ngày, cha nàng thường để thư từ và hóa đơn bừa bãi khắp nơi. Cái giá để bút mực cùng quyển sổ nháp được xếp lại gọn gàng, đúng là cái bàn không còn thuộc về cha nàng nữa. Những ngăn kéo rộng để chứa dụng cụ văn phòng còn rỗng tuếch. Vậy là hắn chưa dọn đồ đạc vào đây. Có một cánh cửa giữa phòng làm việc và phòng ngủ. Cuộc lục soát của nàng mới khoảng một phút, có thể chưa đến, nàng vẫn còn nhiều thì giờ.



Ánh trăng đã biến màu xanh căn phòng ngủ thành màu bạc, hắt ánh sáng nhờ nhờ trên bản khắc của Rembrandt phía trên giường cha nàng. Ruột nàng thắt lại, cần phải cất đi bản khắc này trước khi bọn Đức ném con mắt thèm thuồng của chúng lên đó. Khi đến gần chiếc giường, nàng thấy vài món đồ vứt ngổn ngang như muốn chứng tỏ quyền sở hữu, hộp đựng thuốc lá bằng vàng với chiếc bật lửa đắt tiền trên bàn con cạnh giường ngủ. Nàng tò mò nhìn thấy các vật này đều có những mẫu tự viết lồng nhau nhưng không còn sắc nét vì đã sử dụng nhiều. Nàng vội vã mở ngăn kéo chiếc bàn kê cạnh giường. Có một tập thơ mỏng, một cuốn tiểu thuyết Zola và một quyển sổ ghi chép. Nàng giở qua cuốn sổ và phân vân không biết có nên lấy nó hay không, nhưng nàng biết mình không có đủ can đảm. Nàng cần tìm những giấy tờ khác có mục đích rõ rệt. Ở chân giường có một cái vali chưa soạn ra. Nàng cúi xuống cố gắng mở cái móc ra. Bỗng nàng tê cứng người lại, cửa phòng làm việc bị mở ra, tim nàng đập như muốn vỡ tung lồng ngực. Có thể là Marie vào soạn giường hay mẹ nàng, để xem hắn đã được đầy đủ theo yêu cầu chưa, hay có thể đó là cha nàng.



Móng tay nàng cắm sâu vào lòng bàn tay. Không có tiếng gõ cửa. Thế thì chỉ có một người có thể vào phòng làm việc của cha, đó chính là thiếu tá Meyer, kẻ đang sở hữu căn phòng này. Nàng đứng dậy, mạch máu đập mạnh và đi thụt lùi tới cánh cửa cách đó bảy, tám mét. Cánh cửa ngăn giữa hai căn phòng vẫn mở và nàng thấy bóng dáng tên thiếu tá đi tới bàn giấy, nàng nghe tiếng ngăn kéo mở ra. Nàng lùi lại một bước, rồi một bước nữa. Nàng phải bình tĩnh, nếu nàng vùng bỏ chạy, hắn sẽ thấy ngay. Nàng tiếp tục lùi dần và vấp phải một chiếc ghế. Tay nàng dang ra để lấy thăng bằng, miệng há hốc ra vì sợ hãi.



Dieter Meyer chỉ cần hai sải chân để đến cánh cửa giữa hai căn phòng và đập tay vào công tắc bật đèn. Mắt hắn rọi vào đôi tay trống không của nàng và cánh cửa khép kín sau lưng nàng. Hắn hờ hững dựa lưng vào tường, tay khoanh lại, đôi mắt nheo nheo và hỏi nàng bằng một giọng khá hoàn hảo:




− Cô có biết cô đang làm gì không?



Tay nàng bám chặt lấy ghế:



− Tôi… bữa tối… – Nàng nói với hơi thở hổn hển khó nhọc – Tôi muốn biết ông có còn cần dùng bữa khuya hay không?



Hắn hoàn toàn không giống như hình ảnh nàng đã dệt ra. Không đeo kính một mắt, không phải tóc hoa râm. Vẻ đàn ông của hắn vây phủ lấy nàng như những đợt sóng. Chiếc áo khoác không gài khuy cổ, những huân chương Hiệp sĩ và huân chương Chữ thập sắt chễm chệ trên ngực hắn. Nàng không dám nhúc nhích vì sợ hắn sẽ tóm lấy nàng. Nàng biết thế đứng thoải mái của hắn chỉ là vờ vĩnh, vừa rồi hắn đã lao vào phòng như một loài thú dữ.



− Cô nói láo! – Giọng hắn tỉnh queo.



Mái tóc vàng dày rậm của hắn cắt ngắn, khuôn mặt rắn rỏi cạo nhẵn nhụi với một nụ cười đa tình trên môi, có lẽ do ảnh hưởng của tiểu thuyết Zola. Nàng gạt phắt ý nghĩ ấy, hắn là người Đức và mặc kệ những gì hắn đọc. Cơn sốc đã qua, nàng dần dần lấy lại bình tĩnh.



− Đúng thế! – Nàng hơi nhún vai – Tôi vào phòng ba tôi vì tò mò.



Vẻ ngạo mạn của nàng làm loé lên một tia thán phục trong mắt hắn nhưng nó đã bị dập tắt ngay.



− Nhưng căn phòng này không còn là của cha cô nữa. – Giọng nói hắn như một làn roi quất mạnh vào dây thần kinh của nàng – Nếu tôi thấy cô lảng vảng vào gần đây nữa, tôi sẽ cho bắt cô, cô hiểu rõ chứ? – Giọng hắn không có vẻ gì là dọa suông cả, nàng lùi lại theo bản năng hướng về phía cửa.



− Tôi hiểu rõ. – Nàng nói một cách dứt khoát, tay nắm lấy đấm cửa, chiếc giường rộng trải drap lụa nằm giữa hai người – Chúc ông ngủ ngon.



Lông mày hắn nhếch lên vẻ giễu cợt. Ngay lập tức nàng cảm thấy giận mình ghê gớm, việc gì phải chúc với tụng theo thông lệ. Mặt đỏ bừng nàng xoay người đóng sầm cửa lại. Cầu Chúa cho hắn sa địa ngục.



Nàng đã hành động điên rồ không suy nghĩ. Đáng lẽ Paul phải dặn dò nàng cẩn thận hơn. Khó có thể vào phòng hắn lần nữa, hắn có tin vào lý do nàng nói đâu. Hắn quá rõ nàng muốn gì, nàng đã thất bại. Nàng rùng mình trở về phòng. Hắn sẽ làm gì nếu bước vô đúng lúc nàng đang cầm cuốn sổ ghi chép. Liệu hắn có đưa nàng đến Bộ chỉ huy Gestapo ở Caen hay không? Nếu thế thì cuộc đời nàng kể như xong chỉ vì một kế hoạch hành động vụng về. Lần đầu tiên nàng thấy mình thật liều mạng và bất cẩn. Nàng vào phòng riêng ngồi phịch xuống giường, đôi tay vòng quanh người. Lần sau nàng sẽ cẩn thận hơn và sẽ… thành công.



Sáng hôm sau nàng lại gặp hắn trong đại sảnh khi bước xuống cầu thang. Chiếc áo tác chiến màu xám khoác ngoài bộ đồng phục. Hắn đang mang găng tay, chiếc mũ kẹp dưới nách. Mắt nàng lạnh lùng nhìn hắn, mình lại sắp sửa lịch sự theo thông lệ nữa đi.



− Xìn chào tiểu thư De Valmy. – Hắn nói, đôi lông mày nhếch lên như thấu rõ ý định của nàng và cảm thấy hài lòng vì đã làm nàng thất bại.




Môi nàng mím lại, nàng chỉ hơi nghiêng đầu đáp lại khi đi ngang qua hắn để vào phòng điểm tâm, cơn giận bùng lên.



Hắn giễu cợt nàng! Nàng nhận biết điều đó trong lối nói uể oải và ánh mắt loé lên của hắn trước khi nàng quay mặt đi. Ngồi xuống bàn ăn, nàng tức điên lên khi thấy tay mình đang run. Nàng bấu chặt chúng lại. Nàng không muốn trở thành tấm bia cho những trò giải trí của hắn. Chắc hắn đã tưởng suốt đêm qua nàng lo âu vì sợ cha mẹ nàng mắng. Thế thì hắn đã lầm. Đêm qua nàng ngủ say sưa, chỉ ân hận về sự vụng về của mình.



Từ vòm cửa sổ, nàng có thể nhìn thấy chiếc Horch chạy vòng theo sân cỏ về phía trước rồi lao vút đi. Lisette nheo mắt lại. Vẻ đẹp của tên lính Hitler không tạo cho nàng một ấn tượng hay sự thân thiện nào cả, hắn chỉ làm nàng thêm cương quyết với ý định của mình: Phục vụ cho quân Kháng chiến.



Có một vài nếp nhăn lo âu trên khuôn mặt cha nàng khi ông ngồi vào bàn ăn. Thiếu tá Meyer đã nói với ông rồi chăng. Ông Bá tước vẫn cười nói nhưng với vẻ gượng gạo:



− Kể ra ông khách của chúng ta cũng lịch sự đấy chứ?



− Chỉ bề ngoài thôi ba ạ! – Lisette quạu quọ cãi lại, nàng nhớ đến ánh mắt lạnh lùng lúc hắn dọa bắt nàng.



Ông Bá tước đang ăn một miếng bánh croissant:



− Ông ta được đánh giá cao. Ông dễ gì mà được thưởng huân chương Hiệp sĩ và huân chương thập tự sắt đâu.



− Chúa ơi! Hình như ba ngưỡng mộ hắn lắm thì phải.



− Không đâu, ba thù ghét những gì mà hắn đại diện. Ba chỉ tìm cách chịu đựng hắn mà thôi. – Ông bá tước dịu giọng nói.



Lisette nghịch con dao trên đĩa của nàng. Phải nói cho ba biết thôi, nếu không Meyer sẽ có chỗ bắt bí mình. Nàng bỏ dao xuống và thận trọng nói:



− Ba à, tối qua con đã phạm một sai lầm. Con vào phòng Meyer khi hắn đi vắng.



Mặt ông bá tước tái nhợt:



− Con đã làm gì?



Ông đẩy chiếc ghế lùi ra, nhìn nàng như nhìn một cô gái mất trí:



− Con không hiểu là ông ta có thể tống mình ra khỏi Valmy hay sao? Và con có thể bị hắn phát giác được.



− Hắn đã biết rồi. Hắn bắt gặp con trong phòng.



Lisette ân hận đã làm ông lo lắng.



− Lạy chúa! – Ông bá tước lẩm bẩm và đứng dậy, mặt xám ngoét.



Nàng vội vòng qua bên kia bàn và ôm chầm lấy ông.



− Con xin lỗi ba. Rất tiếc là con đã để bị bắt gặp.



− Nhưng con không hối tiếc làm chuyện đó à?



Cha nàng ngạc nhiên hỏi. Ông nắm vai nàng:



− Meyer đã nói gì với con?



− Hắn cấm con không được lại gần phòng hắn.



− Con không được đến đó nữa. – Ông gằn giọng – Con định tìm gì ở đó hả Lisette?



Nàng thong thả ngồi xuống.



− Con không biết. Có thể là bản đồ hoặc giấy tờ. Bất cứ những gì liên quan đến việc hắn được điều tới đây.



− Con định làm gì với những tin tức đó? – Ông bá tước nghiêm mặt hỏi.



Căn phòng thật yên tĩnh. Nàng có thể nghe thấy tiếng đồng hồ kêu tích tắc và bước chân của bà Marie đang đi lại dưới bếp.



− Con sẽ nói… cho một người bạn… thường quan tâm đến những chuyện đó.



− Paul Gilles phải không? – Ông hạ giọng hỏi nàng.



Lisette sửng sốt mở to mắt.



− Ba không phải là một gã khờ, Lisette. – Ông bá tước nắm chặt tay nàng – Ba biết những gì xảy ra trong làng. Ba biết những ai bắt tay với quân Đức và ba cũng biết ai là quân kháng chiến.



− Nhưng tại sao ba lại không giứp đỡ? – Nàng sôi nổi hỏi – Quân Đồng minh có thể đổ bộ ở đây, chứ không phải ở Pas de Calais đâu. Và nếu như vậy thì họ sẽ cần tất cả những tin tức mới nhất về chiến lũy phòng thủ bờ biển và sự di chuyển của quân đội Đức.



− Nếu những tin tức đó có ở Valmy thì chính tay ba tìm ra chứ không phải là con, Lisette con hiểu chứ? – Ông bá tước nhẹ nhàng nói.



Mắt nàng ánh lên nghi ngờ.



− Vâng con hiểu.



Nàng cảm thấy như trút bỏ được gánh nặng của bí mật mà nàng đã giữ quá lâu.



− Nhưng ba không thể gặp Paul một cách kín đáo như con. Ba phải để con tiếp tục những gì con có thể làm được.



− Nhưng con phải hứa không được lân la tới phòng của Meyer nữa.



Ánh mắt họ gặp nhau và cổ nàng như nghẹn lại. Không còn một hàng rào vô hình giữa họ nữa.



− Con hứa thưa ba.



Nàng đáp mà không ý thức được lời hứa đó hão huyền như thế nào.