Nền trời không một bóng mây nào, nhưng có chim bay để thay thế!
Dưới đất không một ngọn cỏ, nhưng có nhiều thây người nằm ngổn ngang trên mặt cát!
Một màu vàng mênh mông vô cùng tận...
Đây là “Bạch Long Đôi” ở ngoài Ngọc Môn quan, lại cũng có tên gọi: Bãi sa mạc “Khố Mạc Tháp Cách”!
Tuy không thể đem so sánh với bãi sa mạc Đại Qua Bích, nhưng cũng là một bãi sa mạc mênh mông cát trắng, dẫu có những lạc đà hay long câu giỏi đến đâu đi chăng nữa, trong hai ngày lộ trình, đừng có hòng ra khỏi bãi sa mênh mông này!
Tuốt từ phía chân trời, cả một màu vàng đục, bỗng trong màu ấy xuất hiện hai chấm trắng, mỗi lúc một lớn, dần đần thấy xuất hiện rõ là hai tuấn mã màu trắng, phóng vó chạy tuốt về hướng Đông!
Trên lưng hai ngựa, một già một trẻ, người già ước ngoại ngũ tuần, chiếc áo dài màu xám tro nhạt cuốn khắp toàn thân, mày dài mắt nhỏ, bộ râu năm chòm phất phơ trước ngực, thần sắc trông có vẻ thanh cao tao nhã vô cùng!
Người trẻ chừng 14, 15 tuổi, nhưng tướng mạo sáng sủa linh hoạt, đôi mắt to đen láy, trong những tia chớp nháy ấy cũng có những nét oai phong của nó!
Giữa lúc đang đi ấy, thiếu niên giơ roi ngựa chỉ lên trời, nghiêng đầu hỏi người già đi cạnh:
- Thầy xem kìa! Biết bao nhiêu chim ăn xác người đương bay đằng kia, không lẽ những đống ngổn ngang ở dưới đó là là thây xác người chết sao?
Người già nheo mày nói:
- Nếu quả thật gặp xác chết, chúng ta nên chôn cất tử tế cho họ làm phúc, Linh con, hãy mau đuổi lũ chim đáng ghét kia đi đã!
Thiếu niên giơ roi khẽ quất, con bạch mã tăng thêm tốc độ, khi gần kề đám thây người nằm dưới đất, thiếu niên vòng tay vái một lúc luôn mười mấy đồng tiền, thế là cả một đám chim đang lượn quanh trên bèn không thất kinh vỗ cánh bay tuốt lên cao và mất dạng dần! Thiếu niên cúi nhìn sơ dưới đất một lượt, vội ghìm ngựa và quay đầu lại về phía thấy mình, lớn tiếng rằng:
- Dạ thưa thầy, quả nhiên toàn là xác người chết cả, trong những thây mà ấy, có cả hòa thượng, đạo ni, người thường nằm ngổn ngang đến mười mấy người!
Người già nghe xong tỏ vẻ ngạc nhiên, vội thúc ngựa tới gần coi một hồi bỗng kinh lạ nói:
- Ô kìa! Sao lại có cả Chí Cảnh Thiên của phái Thiếu Lâm, Thủ Nhất đạo trưởng của phái Võ Đang, nào Lưu Đường song kiệt, nào Trường Bạch bát hùng, toàn những nhân vật nổi danh của trời Nam đất Bắc, không hiểu sao bỗng nhiên lại cùng nhau chết hết tại Bạch Long Đôi ở Ngọc Môn quan như thế này?
Sự việc quá đỗi ly kỳ, người già khẽ tung mình xuống ngựa để cố tìm thử lý do về những cái chết của đám cao thủ trong võ lâm, thiếu niên đột nhiên kêu lên:
- Thầy coi thử kìa! Những xác chết nằm ngổn ngang vô thứ tự này, hình như người ta đã cố ý bày xếp thành một hình là cờ đương tung bay thì phải?
Người già nghe nói càng thất kinh, định thần coi kỹ, quả nhiên những xác chết ấy, thoạt nhìn vào thì ngổn ngang vô thứ tự thật, nhưng để ý nhìn kỹ, đích xác là đã có người có ý xếp thành hình lá cờ tung bay!
Người già khẽ rùng mình, vừa tỉ mỉ quan sát, vừa nói:
- Linh! Con mau lại đây! Hãy lần theo cổ xác chết mà được chọn làm ngọn cây cờ, tức ngay đỉnh đầu của Thủ Nhất đạo trưởng phái Võ Đang, đi thẳng và đếm đúng chín chín tám mươi mốt bộ, xong rồi người lại quan sát kỹ xem có vật gì đặc biệt không? Nhớ xem về thể tích lớn nhỏ của nó như thế nào, nhưng tuyệt nhiên không được động chạm rờ mó tới nó, xong rồi về đây báo ngay cho thầy hay!
Thiếu niên nghe vậy, trong bụng nghi hoặc khó hiểu, nhưng cũng tuân lời, hướng về phía Đông Bắc, vừa đi vừa đếm từng bước một.
Người già coi kỹ mười hai cỗ tử thi một lượt, đều không tìm ra mảy may vết tích gì, chỉ thấy trên khóe miệng mỗi người có chút ít máu ứa ra mà thôi!
Người già cúi mình xuống vạch miệng tử thi, bất giác nín thở, thì ra trong miệng tử thi ngậm đầy một một đống huyết đã tím thâm, đúng là trước khi chết chưa kịp phun ra!
Coi luôn một hơi mấy cỗ xác chết, cỗ nào cũng giống y hệt nhau, trong bụng người đã như hơi hiểu, đôi mày nheo chặt lại tự lẩm bẩm một mình:
- Việc này lạ thật! Không lẽ lại chính là hắn ư?!!!
Chưa hết lời, thiếu niên đã hấp tấp chạy về báo cáo với người già:
- Thưa thầy! Sau khi con đi đúng chín chín tám mươi mốt bộ, thì thấy trên bải cát, ngoài ba lá cờ dài hơn bảy tấc bằng đoạn đỏ chói, trên cờ có vẽ một sọ người và hai xương chéo trắng toát ra, không còn thấy vật gì khác hơn nữa!
Người già càng nheo chặt lông mày hơn trước, không nói tiếng nào, đưa tay ra dấu cho thiếu niên lên ngựa, rồi giơ tay quất ngựa lồng như bay đi luôn!
Thiếu niên áy náy trong bụng, mấy lần tính mở miệng hỏi thầy, nhưng đều bị thần sắc nghiêm nghị và ánh mắt u buồn chặn đứng ngay tính tò mò của mình; tám vó tung bụi nhắm thẳng biên giới hai tỉnh Cam Túc và Tân Cương của Ngọc Môn quan tiến lướt đi!
Người già tên gọi Tạ Đông Dương, võ công cực giỏi, có thể nói là siêu quần thoát tục, bởi ẩn dật lâu ngày ở miền Nam Cương, nên biệt hiệu là Nam Cương ẩn hiệp! Thiếu niên tên Thượng Quan Linh, quê chánh ở Triết Giang, xưa kia theo người cha đi nhậm chức ở Nam Cương, nhưng chẳng bao lâu song thân qua đời, Tạ Đông Dương thấy cậu bé có căn cơ về nghiệp võ, nên đã thu làm đệ tử, truyền dạy hết võ học khổ luyện bình sinh của mình!
Võ công của Thượng Quan Linh cũng có ít thành tựu nho nhỏ đáng kể, nên Tạ Đông Dương mới nảy ra ý nghĩ là đem theo cậu ái đồ của mình ngao du miền Trung Nguyên để mở mang kiến thức về các tập tục phong thổ mỗi xứ của Trung Nguyên; đây là lý do chính đã xui khiến hai thần trò rời miền Nam Cương.
Hai người mải miết rong ruổi, thẳng tiến về hướng Ngọc Môn quan, Tạ Đông Dương quay nhìn quãng đường đã qua, cát vàng mênh mông, không một bóng người hay vật, bất giác buột miệng thở dài rằng:
- Đã hơn mười năm không về Trung Nguyên, ai ngờ mới đến Bạch Long Đôi đã gặp ngay những chuyện kỳ lạ như thế, thật là nguy hiểm!
Thượng Quan Linh thấy thầy mới mở miệng là nói nguy hiểm, lấy làm lạ hỏi rằng:
- Thưa thầy! Ở Bạch Long Đôi, chúng ta chỉ mới thấy sơ đàn chim ăn xác chết, mười hai cỗ tử thi và ba lá cờ đoạn đỏ vẽ sọ người, không hiểu thầy bảo nguy hiểm là có nghĩa gì ạ?
Tạ Đông Dương cười ngượng, còn chưa kịp trả lời, bỗng nhìn thấy phía trước mặt một tuấn mã màu huyền chạy như bay tới, người trên yên ngựa râu bạc phất phơ trước ngọn gió, thân hình vạm vỡ, choàng một chiếc áo bào màu đồng cổ, diện mạo tuy chưa thấy rõ, nhưng những động tác, cử chỉ của người phi ngựa trông rất quen mắt, bất giác đánh tiếng lớn hỏi rằng:
- Phía trước phải chăng là hiền huynh Ngân Tư kiếm khách Phương Bách Xuyên đấy không? Tiểu đệ là Tạ Đông Dương xin chào ông anh đây!
Người râu trắng nghe tiếng, càng thục mạnh ngựa, chốc mắt đã đến trước mặt, buông tiếng ha hả cười rằng:
- Tạ hiền đệ vẫn mạnh giỏi luôn đấy chứ? Hơn mười năm không gặp mặt nhau rồi, quả thật khiến cho Phương Bách Xuyên nhớ hiền đệ quá!
Nói xong, đưa mắt ngắm người bạn già và Thượng Quan Linh, thấy mình mẩy họ bám đầy bụi cát vàng khè, ngạc nhiên hỏi:
- Tạ hiền đệ có việc gì gấp lắm sao mà trông có vẻ mệt nhọc thế, có thể cho ngu huynh này hay không?
Tạ Đông Dương cười miễn cưỡng rằng:
- Câu chuyện này lạ lắm huynh ạ! Tiểu đệ tuy hơn mười năm chưa về Trung Nguyên, nhưng nhóm Càn Khôn ngũ tuyệt hình như đã tuyệt tích trên giang hồ hơn hai mươi năm trời và nghe đâu già nửa trong nhóm đã quá cố qua đời rồi thì phải?
Phương Bách Xuyên hơi ngạc nhiên, tay chỉ về lối đường phía sau mình rằng:
- Cách đây chừng hai mươi dặm, có một thị trấn nhỏ, ngu huynh bận chuyện bên người, nhưng vì đã xa hiền đệ quá lâu, vậy thể nào đêm nay huynh đệ cũng phải ở lại với nhau, mai hãy lên đường, bây giờ chúng ta hãy về quán trọ rồi thả cửa trò truyện với nhau cho thảo lòng mong nhớ bấy lâu!
Dứt lời, quay ngựa dẫn đường cùng Tạ Đông Dương, Thượng Quan Linh đến một quán trọ của tiểu trấn.
Quán tuy nhỏ nhưng nhà trọ cũng đầy đủ các thức ăn, đồ nhắm, đôi bên đều nhắm rượu ăn uống trong phòng vui vẻ.
Tạ Đông Dương lúc này mới bảo Thượng Quan Linh qua chào Phương sư bá, Phương Bách Xuyên ngắm nhìn tướng mạo cậu bé xong, khen rằng:
- Kể ra căn cơ cốt cách cũng khá lắm đấy, nhưng cần nhất hiền đệ phải ráng làm sao đào tạo cho nó nên trò, tương lai của nó phải là một đóa kỳ hoa xuất sắc trong giới võ lâm mới được! Nhưng giờ đây chưa phải lúc mà hiền đệ dắt nó đi ngao du như thế, hiền đệ có biết, gần đây các nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên, ai ai cũng lo cất kiếm giấu đao, bế môn tỏa động, không dám xuất đầu lộ diện, lý do chính cốt để tránh cái họa sát thân vào mình không?
Tạ Đông Dương lạ lùng hỏi:
- Thế nghĩa làm sao?
Phương Bách Xuyên rằng:
- Trong vòng nửa năm nay, có ba câu chuyện sốt dẻo mà được nhắc nhở luôn trên môi lưỡi mọi người, chấn động hầu hết trong võ lâm! Những kẻ thường hưu hưu tự đắc, coi trời bằng vung, đến cả các anh hùng của hai phe Hắc đạo, Bạch đạo trong lục lâm xưa nay, người người cũng cảm thấy tự nguy, không biết vận xui xẻo sẽ giáng vào người mình một ngày nào đây!
Tạ Đông Dương càng nghe càng lấy làm lạ hỏi rằng:
- Thế ba câu chuyện ấy ra sao mà có một oai lực ghê gớm như thế? Xin Phương huynh hãy kể cho tiểu đệ nghe chút cho biết.
Phương Bách Xuyên gắp miếng thịt bò đưa lên miệng nhai, hớp xong hơi rượu, khà một tiếng rồi nói:
- Hiền đệ khi nãy chẳng nói đến Càn Khôn ngũ tuyệt là gì? Vậy hiền đệ đối với năm vị kỳ nhân xuất quỷ nhập thần trong võ lâm này có còn nhớ rõ không?
Tạ Đông Dương nhắm một hớp rượu rằng:
- Làm sao ai mà quên cho được năm vị tuyệt thế cao nhân ấy! Này tiểu đệ xin kể nhé! Tây Đạo! Đông Tăng! Nam Bút! Bắc Kiếm và Đoạt Hồn Kỳ! Có đúng tên năm vị ấy không nào?
Phương Bách Xuyên lại hỏi:
- Vậy hiền đệ có nghe nói đến công lực cao thâm giữa Ngũ tuyệt chưa?
Tạ Đông Dương rằng:
- Tường tận thì tiểu đệ không dám nói chắc, nhưng nghe sự truyền tụng trên giang hồ, giữa Ngũ tuyệt, nếu nói về công lực chân thật thì hình như Nam Bút cao hơn một bực, còn nói về sự biến ảo bất thường, vui giận tùy hứng, quỉ dị vô luân thì phải kể đến Đoạt Hồn Kỳ chiếm giải nhất.
Phương Bách Xuyên cười rằng:
- Hiền đệ quả đã nói đúng, ba câu chuyện mà ngu huynh sắp kể đây, chính đều phát khởi từ con người quái dị, biến ảo bất thường, vui giận tùy cơn hứng, quỷ vị vô luân mà trên giang hồ đã cho hỗn danh Đoạt Hồn Kỳ.
Tạ Đông Dương nghĩ đến vụ án ở Bạch Long Đôi, bất giác lại kinh hoảng trong bụng, nhưng tạm thời không thể thôi thúc Phương Bách Xuyên mau kể ba câu chuyện.
Phương Bách Xuyên lại cạn một ly rượu rồi nói:
- Đây ngu huynh xin kể câu truyện thứ nhất: Hai mươi năm về trước, tại Kim Đỉnh núi Nga Mi, Càn Khôn ngũ tuyệt đã cùng nhau thi thố võ học tuyệt tài của mình để tranh ngôi thứ, cuộc đấu ấy đã kéo dài suốt năm ngày đêm liền, hầu hết cả năm người đã tiêu hao gần hết chân lực của mình, nhưng sự thắng bại vẫn chưa thuộc về ai cả, cuối cùng mọi người đành phải hiệp nghị với điều kiện là cùng ngang hàng nhau để chấm dứt cuộc đấu phân ngôi thứ ấy! Đồng thời ai nấy bèn vận Thần Công Chỉ để khắc ký hiệu riêng của mình lên trên một tảng đá khổng lồ làm vật kỷ niệm muôn đời! Sau khi ai nấy khắc xong ký hiệu của mình, chừng ấy người ta mới nhận ra nét khắc của Kình Thần Bút sâu hẳn hơn những nét bút khác của Ngũ tuyệt đến ba phần! Từ đó trên giang hồ truyền khẩu nhau Càn Khôn ngũ tuyệt tuy khó phân cao thấp, nhưng nội kết về Thần Công Chỉ thì Nam Bút quả có hơn một bực! Sau cuộc đấu say so đó, bỗng nhóm Càn Khôn ngũ tuyệt vắng bóng hẳn trên giang hồ hơn hai mươi năm trời, không những họ không xuất hiện trên giang hồ mà cả hai chữ sống chết ra sao, người đời không ai biết tới! Nhưng cách khoảng nửa năm gần đây, tảng đá mà Ngũ tuyệt từng dùng Thần Công Chỉ khắc ký hiệu của mình ở trên Kim Đỉnh núi Nga My, bỗng dưng bị người ta xóa hẳn mất những ký hiệu của Tây Đạo, Đông Tăng, Nam Bút, Bắc Kiếm, nghiễm nhiên chỉ còn chứa lại mỗi ký hiệu của Đoạt Hồn Kỳ mà thôi.
Tạ Đông Dương xen vào hỏi rằng:
- Thế kẻ xóa ký hiệu này là ai? Dẫu cho Đoạt Hồn Kỳ còn sống trên thế gian này, cũng không nên ngông cuồng như thế mới phải, vậy xin Phương huynh mau kể tiếp câu truyện thứ hai đi.
Phương Bách Xuyên khề khà một hồi mới nói:
- Nói về tay đầu nậu lục lâm của mấy tỉnh Đông nam, người nào đáng mặt nhất, chắc hiền đệ còn nhớ chứ?
Tạ Đông Dương suy nghĩ một hồi nói:
- Nếu thế thì phải kể đến đại đạo Đông Hải Kim Giao đảo chúa là Bào Trưởng Hùng, từng khét tiếng về hung tàn độc ác.
Phương Bách Xuyên hừ một tiếng rồi lại nói:
- Bào Trưởng Hùng oai danh lẫy lừng miền Đông nam, thanh thế lại lớn, nhưng trong một chuyến ra bể để làm ăn, khi về đến đảo, bỗng phát giác trên cột buồm lớn của chiến thuyền hiệu Kim Giao, bị người ta dùng máu tươi vẽ ngay một lá cờ Đoạt Hồn Kỳ ở trên từ hồi nào không hay! Bào Trưởng Hùng phần thì bỡ ngỡ, phần thì cho là Càn Khôn ngũ tuyệt đã ẩn náu lâu năm, oai danh cũng đã yếu dần, lại nửa ỷ lại đám thủ hạ đông đúc, nên gã không màng để tâm làm gì, ngờ đâu ngay đêm đó, chính từ bản thân Bào Trưởng Hùng đến vợ giặc con cướp cùng với những tên thủ hạ hung tàn bạo ác nhất, đều bị giết tiệt hết một lúc! Đám cướp lẫy lừng của đảo Kim Giao từ đấy tan rã luôn.
Tạ Đông Dương nghiêng chén kề miệng nói:
- Bào Trưởng Hùng xưng bá lâu năm ở Đông Hải, hai tay vấy đầy máu dân lành vô tội, hắn bị trừ khử đi như thế kể cũng đem lại hạnh phúc cho dân trong vùng không ít! Nếu thế cũng có thể kể là một công đức lớn lao của Đoạt Hồn Kỳ, việc làm này đáng khen ngợi lắm.
Phương Bách Xuyên cười ngượng rằng:
- Ấy, vị ma quân này là con người khó lường đoán như thế đấy! Sau vụ sào huyệt Kim Giao bị hủy diệt và toàn gia bảo Bào Trưởng Hùng bị giết sạch được truyền ra, trên giang hồ sắp sửa khôi phục lại sự sùng kính xưa kia đối với Đoạt Hồn Kỳ, đột nhiên lại có một chuyện lạ xảy ra tiếp.
Tạ Đông Dương đang nghe cơn hứng, vội hỏi ngay:
- Phương huynh không nói đùa chứ? Đâu lại có thể lắm chuyện lạ mãi thế? Xin huynh mau kể tiếp đi vậy.
Phương Bách Xuyên thở dài rằng:
- Câu chuyện kỳ lạ mà ngu huynh sắp kể ra đây là câu truyện thứ ba, đồng thời cũng là nguyên do chính là ngu huynh đang phải bôn ba vất vả ngàn dặm đi về miền Tân Cương, nhưng không ngờ lại may mắn được gặp được hiền đệ ở đây.
Tạ Đông Dương càng nghe càng khó hiểu, lại càng hối thúc kể mau.
Phương Bách Xuyên khẽ lắc đầu rằng:
- “Nguyên ngu huynh có ông bạn già là Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn ở trên Lã Lương sơn, năm nay đã có trên sáu mươi tư tuổi, đã lâu không màng đến những chuyện ân oán trên giang hồ, nên đã phong đao quy ẩn, an hưởng tuổi già. Trong làng võ lâm, bất luận Hắc đạo hay Bạch đạo, đều kính nể hành vi hành động xưa nay của lão, trọng bạn quý người, nhân nghĩa như trời, ai ai cũng phục và mến lão! Nhưng trong một tháng trước đây, chuyện lạ đã xảy ra một cách đột ngột, vợ của Thường Tử Tuấn đã mất sớm, để lại ba trai một gái, nội trong hai ngày liên tiếp, người con trưởng và người con thứ đương cơn giấc nồng, tự nhiên trên thiên linh cái, cây cờ Đoạt Hồn Kỳ cắm sâu trên đầu, lẽ đương nhiên là chết một cách rùng rợn!
Cha con tình nặng, Thường Tử Tuấn điên người vì ức, lão cũng chẳng sợ danh vọng hay kiêng kỵ Càn Khôn ngũ tuyệt nữa, bởi thủ đoạn của kẻ thù quá độc ác tàn nhẫn, hơn nữa lão cũng không muốn gây họa cho người khác nên không hề mời một bạn thân nào đến trợ lực, chỉ cùng với đứa con trai thứ ba Thường Nghĩa và cô cái út Thường Bích Vân chuẩn bị ngay môn ám khí gia truyền Thái Dương thần trâm, còn phần mình cũng lo lấy luôn cây Ngô Câu Kiếm mà đã phong tỏa từ lâu nay ra! Ba cha con ngồi chờ đợi sự thăm viếng của Đoạt Hồn Kỳ, quyết liều mình sống mái để trả mối thù giết con.
Nhưng chờ mãi, chỉ đến khi trống điểm canh ba, không thấy một hình bóng gì xuất hiện, trong khi ấy, tự dưng Thường Nghĩa lăn đùng ra mặt đất, ngay trên đỉnh đầu, không biết từ hồi nào, lại bị cây truy hồn đoạt mệnh Đoạt Hồn Kỳ cắm đúng vào thiên linh cái! Nhưng lần này có hơi khác là cây cờ nhỏ ba tấc ấy lại găm kèm theo mảnh giấy nhỏ, trong lúc này Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn thấy cả ba người con trai của mình bị chết một cách thảm độc như thế, lão uất khí chết giấc ngay khi đó. Riêng nàng Thường Bích Vân còn đủ bình tĩnh, một mặt lo cứu tỉnh cha, một mặt cố đè nén cơn sầu thảm cắt ruột của mình, vội gỡ mảnh giấy găm trên lá cờ sọ người xuống xem, thì ra Đoạt Hồn Kỳ nói lý do bận việc gấp, tạm thời khoan dung mạng sống cho hai cha con thêm ba tháng nữa, đúng hẹn ba tháng sau sẽ trở lại, chừng đó toàn gia họ Thường đừng có hòng sống sót được mạng nào.
Nàng Bích Vân coi xong, giấu kín luôn việc này với cha, đồng thời báo tin cấp tốc với những người bạn thâm giao của Thường Tử Tuấn, trong số bạn bè ấy, dĩ nhiên đã bao quát cả ngu huynh đây! Sau khi họp mặt tính kế, chỉ còn một cách là nhân trong thời hạn ba tháng chưa tới ấy, nên gấp rút chia tay đi mời các tay cao thủ trên giang hồ đến trợ trận, nhưng đối với những hạng kỳ nhân như Đoạt Hồn Kỳ ấy, những tay võ thuật tầm thường, có mời họ cho đông cũng chẳng khác nào mình đem nhận chìm họ xuống sông để chết đuối cả nút với nhau. Cho nên tuy là chia nhau đi mời khắp nơi, kỳ thực cũng là một chuyện khó giải quyết hết sức.
Nay ngu huynh sực nhớ Thiên Si đạo trưởng, tức hiệu Tây Đạo là một trong nhân vật Càn Khôn ngũ tuyệt, xưa kia từng có một chút duyên tri ngộ với ngu huynh, nếu quả Đoạt Hồn Kỳ tái xuất hiện trên giang hồ thật, ngại gì mà mình không tìm đến nơi cũ của Thiên Si đạo trưởng trên A Nhĩ Kim Sơn? Nếu ông còn sống ở trần gian này, mà mình lại mời được ông ta giúp sức, chừng ấy tính mạng ông bạn già Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn và cô gái út Thường Bích Vân, ít nhiều gì cũng còn hy vọng để bảo toàn mạng sống cho họ! Vì thế mà ngu huynh mới phải khởi trình suốt ngày lẫn đêm, nào ngờ đâu lại khéo gặp hiền đệ nơi Ngọc Môn quan này”.
Tạ Đông Dương lắc đầu rằng:
- May mà Phương huynh lại gặp tiểu đệ ở đây, nếu không cũng hoài công vất vả mà thôi, thậm chí có thể xảy ra những việc ngoài ý muốn chưa biết chừng.
Sự kinh ngạc chuyến này lại thuộc về Phương Bách Xuyên, lão cau mày rằng:
- Hiền đệ nói sao nghe lạ quá?
Tạ Đông Dương đủng đỉnh đáp:
- Chuyến Đông du này của tiểu đệ, mục đích chính là đễ cho cháu Thượng Quan Linh kiến thức những tuyệt học của các cao nhân trong giới võ lâm ở Trung Nguyên này! Khi tạt ngang A Nhĩ Kim Sơn, đâu có lý nào lại không ghé thăm Thiên Si đạo trưởng, nào ngờ khi đến noi thì thấy mạng nhện chi chít, bụi bặm dầy lớp lớp, đâu thấy bóng dấu người ta? Như thế còn chưa đáng kể, cái mà khiến người ta kinh lạ nhất là vụ Bạch Long Đôi, trên bãi sa mạc khô khan ấy đã phát hiện mười hai cỗ tử thi, trong ấy có cả những tay cao thủ trong làng võ lâm, nào Thủ Nhất đạo trưởng của Võ Đang, Chi Cảnh thiền sư của phái Thiếu Lâm, nào Trưởng Bạch bát hùng, Tiền Đường song kiệt, tất cả mười hai cỗ xác chết ấy được xếp thành hình một lá cờ. Trong khi tiểu đệ suy nghĩ lại một lúc mới sực nhớ đến con người bí hiểm Đoạt Hồn Kỳ, bèn sai ngay Thượng Quan Linh chiếu theo những quy lệ xưa kia của Đoạt Hồn Kỳ thường quen sử dụng, quả nhiên đã phát giác ba lá cờ nhỏ Đoạt Hồn Kỳ cắm trên bãi cát thành ba hướng khác nhau.
Phương Bách Xuyên kinh ngạc rằng:
- Đoạt Hồn Kỳ này quả thật là con người quỷ dị vô luân! Chẳng hiểu y dùng cách gì để phỉnh gạt mười mấy mạng cừ khôi của làng võ lâm thiên Nam địa Bắc này đến Bạch Long Đôi giết hết cả một lượt như thế?
Tạ Đông Dương cũng không biết nói sao, Thượng Quan Linh theo dõi câu chuyện từ đầu, giờ mới lên tiếng hỏi thầy:
- Thưa thầy! Con không hiểu tại sao Đoạt Hồn Kỳ sau khi giết chết nhiều người như thế, mà lại còn cắm ba ngọn cờ sọ người trên bãi cát như thế để làm gì cơ ạ?
Tạ Đông Dương chưa kịp nói, Phương Bách Xuyên đã cướp lời trước rằng:
- Đó là quy lệ của Đoạt Hồn Kỳ, hễ một khi giết người xong, nếu không thấy để lại cây cờ ác đó, khổ chủ có thể nhặt ngay thây ma về chôn cất ngay hôm đó, còn không, phải theo đúng số cờ của y để lại mà nhặt xác chết về, giả tỷ như vụ ở Bạch Long Đôi, cháu thấy y cắm ba lá cờ chứ gì? Như vậy là y đã cho biết rõ số phận của mười hai thây ma ấy, nhất định phải ba ngày sau mới được phép thu dọn chôn cất! Nếu trước ngày ấy mà có kẻ nào rờ tới thì...
Vừa lúc Phương Bách Xuyên chưa kể hết lời, bỗng nghe tiếng chủ quán trọ rầy la người làm phía ngoài cửa là đừng nên vẽ bậy bạ lên vách.
Nghe nói thế, Phương Bách Xuyên và Tạ Đông Dương đều giật nẩy mình, vội ra ngoài xem thử chuyện gì, bỗng nhiên cả hai người biếc sắc hồi hộp vô kể, thì ra trên bức tường phấn trắng ấy, đã có người vẽ một lá cờ, giữa lá cờ lại có một sọ người và hai xương chéo phía dưới.
Phương Bách Xuyên suy nghĩ một lúc, vội căn dặn chủ quán đừng làm kinh động huyên náo ra làm gì, tối đến bảo hết những người làm cứ việc ngủ đâu ở yên đấy, bất luận có chuyện gì xảy ra, cấm tuyệt la lối kinh động! Nếu quán trọ chẳng may tổn thất, hoàn toàn đều do mình phụ trách bồi thường hết! Còn bức vẽ trên tường kia cứ tạm để đó, cấm tiệt lau chùi vội.
Nơi miền hoang vắng vô biên này, những bậc dị nhân thường xuất hiện như thế là thường lắm, nên chủ quán thấy tướng mạo Phương Bách Xuyên oai nghi lẫm liệt như thế, chỉ còn nước khép nép tuân lệnh cho xong việc.
Khi trở về phòng, Tạ Đông Dương cau mày rầu rĩ với Phương Bách Xuyên rằng:
- Phương huynh thử nghĩ xem thế nghĩa làm sao? Trong quán trọ này đâu có nhiều lữ khách gì đâu, vậy bức vẽ lá cờ Đoạt Hồn Kỳ trên tường ấy, rõ ràng là y cố tình vẽ cho bọn chúng mình đây! Nhưng thầy trò tiểu đệ đối với làng võ lâm Trung Nguyên, đâu hề gây một ân oán gì đâu? Sao...
Thượng Quan Linh thấy thầy buồn rầu lạ lùng, liền xen ngay vào hỏi:
- Thưa thầy, sờ lên lá cờ Đoạt Hồn Kỳ ấy sướng tay lắm, vừa mềm vừa mướt lại vừa nhẹ như bấc đèn, hóa ra chỉ là một miếng đoạn nhỏ xinh xắn buộc trên cây trúc, đẹp như thế thì có vẻ gì là hãi hùng đâu?
Tạ Đông Dương nghe nói vậy thất kinh hồn vía, nét mặt sa sầm ngay xuống hỏi:
- Linh con! Hãy nói thật cho thầy nghe, ở trên Bạch Long Đôi, con có đụng chạm đến lá cờ Đoạt Hồn Kỳ không?
Thấy thầy lộ vẻ giận dữ, Thượng Quan Linh rụt rè trả lời:
- Con thấy lá cờ ấy chết tạo tinh xảo và đẹp, thích quá, nên con rút lấy một cây mang theo bên người để chơi...
Tạ Đông Dương nghiến răng giơ luôn chưởng phải lên, nhưng thấy khuôn mặt ngây thơ hồn nhiên của đồ đệ mình, lão vội thu ngay chưởng lại, thở dài đấm luôn lên mặt bàn rầm một tiếng, nghiến răng nói:
- Mới lần đầu tiên đưa mày đi ngao du để rút tỉa những kinh nghiệm tinh hoa trên giang hồ, ai ngờ mày đã gây nên một đại họa tầy trời này! Mày lấy cây Đoạt Hồn Kỳ này, gây nên cái chết cho thầy trò mình đã đành, mày còn làm liên lụy cho cả Phương sư bá nữa, mày bảo thầy bây giờ phải xử sự sao cho phải đạo?
Theo thầy hơn mười năm nay, Thượng Quan Linh chưa hề bao giờ bị thầy mắng như hôm nay, cậu bé bỗng đỏ ngầu đôi mắt, nước mắt ràn rụa.
Phương Bách Xuyên thấy chuyện đã chót lỡ như vậy, có tức giận hay lo lắng cũng vô ích! Hơn nữa lão lại có duyên hợp với Thượng Quan Linh, bèn vỗ vai cậu bé an ủi rằng:
- Thôi! Hiền điệt đừng sợ hãi! Hãy đưa cây Đoạt Hồn Kỳ ấy ra bác xem thử xem nào.
Thượng Quan Linh từ trong người móc ra lá cờ đỏ chói đưa qua, Phương Bách Xuyên xem xét một hồi rồi nói với Thượng Quan Linh rằng:
- Hiền điệt hãy mau đi mượn bút mực của chủ quán đây cho bác!
Thượng Quan Linh ra khỏi phòng, Phương Bách Xuyên mới cười nói Tạ Đông Dương rằng:
- Tuổi trẻ vốn vô tri, hiền đệ hà tất phải giận làm gì? Anh em bạn chúng mình đều đã là người ngoại ngũ tuần cả rồi, nếu thật bị chôn xác nơi biên hoang này, cũng không đáng buồn tủi gì đâu! Dù cho oai danh của Đoạt Hồn Kỳ lừng lẫy đến đâu đi nữa, được liệt danh vào nhóm Càn Khôn ngũ tuyệt, nhưng anh em chúng ta tự hỏi trong mấy chục năm chuyên cần rèn luyện như thế, tin chắc không đến nỗi gì tệ mạt ngồi bó tay chịu chết thế.
Tạ Đông Dương nhướng mày hào hùng lớn tiếng nói:
- Tạ Đông Dương này đâu phải hạng người tham sống sợ chết gì đâu! Nhưng vì tiểu đệ đã gây rắc rối cho hiền huynh bằng thằng đồ đệ ngổ ngáo ấy, vô tình đã lôi cuốn Phương huynh vào trận gió bão nguy hiểm này, trong lòng tiểu đệ thật áy náy vô cùng...
Phương Bách Xuyên không chờ cho Tạ Đông Dương nói hết lời, đã tiếp lời cười rằng:
- Anh em mình vốn sinh tử chi giao, hiền đệ đừng nên nói thế làm gì, ngu huynh vừa mới nghĩ ra được một kế, nếu rủi thất bại mà cho dẫu có tan xương nát thịt, anh em mình cũng ráng liều thân già để quyết đấu một phen với nhân vật thần kỳ lừng danh dưới gầm trời võ lâm này.
Dứt lời cầm luôn cây Đoạt Hồn Kỳ xé toạc ngay ra thành hai mảnh.
Tạ Đông Dương trợn mắt hoảng hồn, đương tính hỏi lý đo, Thượng Quan Linh đã mượn được bút mục, lững thững bước vào phòng, Phương Bách Xuyên giơ hai mảnh đoạn đỏ bị xé của ngọn Đoạt Hồn Kỳ cười nói với Thượng Quan Linh:
- Hiền điệt hãy theo bác ra ngoài này một chút đã!
Tạ Đông Dương cũng không nghĩ bạn đang tính chuyện gì, cũng lủi thủi bước theo sau ra xem.
Lúc này trời đã tối mịt, quán trọ lại ở ngay hướng Đông nam của tiểu thị trấn, dân cư vốn chẳng có mấy, phố xá vắng vẻ buồn tênh.
Phương Bách Xuyên lại ngay bức tường có vẽ dấu Đoạt Hồn Kỳ ấy, tay giơ mảnh cờ bị xé, ngầm vận công lực cắm phập luôn vào tường, xong xoay qua lấy bút mực ngay trên tay Thượng Quan Linh, ngay trên đầu ngọn cờ, lão vẽ luôn hẳn một cây phất trần lớn tướng.
Cây phất trần này vẽ khác hẳn với loại thường vì cán phất trần rất ngắn, đuôi râu phất trần lại rất dài.
Sau khi vẽ xong về phòng, Tạ Đông Dương cau mày hỏi:
- Này Phương huynh! Liệu cái kế Họa Long Chấn Hổ (Vẽ rồng dọa cọp) của hiền huynh có hiệu quả gì chăng?
Phương Bách Xuyên lắc đầu miễn cưỡng cười rằng:
- Đây chẳng qua cũng như ngựa chết chữa thành ngựa sống mà thôi! Bởi gần địa phận A Nhĩ Kim Sơn, cũng là nơi cư ngụ của Thiên Si đạo trưởng, thế mà Đoạt Hồn Kỳ dám ngang nhiên hoành hành tàn sát ở Bạch Long Đôi, nếu Thiên Si đạo trưởng còn ở cõi gian này, đâu có lý nào lại không ra mặt can thiệp? Cho nên ngu huynh đành vẽ ký hiệu của Thiên Si đạo trưởng là Trường Vĩ Vân Phất (Phất trần dài đuôi), dù cho có vô dụng đi nữa, nhưng trước khi Đoạt Hồn Kỳ ra tay hạ độc thủ cũng phải kiêng nể phần nào, như thế vô hại mà còn có lợi cho anh em mình là khác.
Tạ Đông Dương tuy thấy Phương Bách Xuyên đượm vẻ buồn rầu, nhưng vẫn điềm tĩnh như thường, họ Tạ cũng coi sự chết nhẹ tựa lông hồng, bèn cười ha hả rằng:
- Đoạt Hồn Kỳ đã từng lừng lẫy tiếng tăm xưa kia, từ ngày tái xuất thế lần thứ hai trở về đây, được nghe thêm mấy câu chuyện của y, thanh thế uy danh càng làm thiên hạ khiếp đảm, thế mà tiểu đồ Thượng Quan Linh và hiền huynh, đối với tín vật nổi tiếng của y để lại, một người đã ngang nhiên dám đoạt, một người lại dám xé toanh hiên ngang như vậy, nếu đêm nay được bình yên vô sự, chừng về đến Trung Nguyên, nội câu chuyện Khéo lừa Đoạt Hồn Kỳ ở Ngọc Môn quan này cũng trở thành một giai thoại trong làng võ lâm!
Phương Bách Xuyên khẽ lắc đầu cười gượng, cả ba người lo sửa soạn binh đao ám khí sẵn sàng trên tay, ngồi im định thần chờ kẻ địch đến.
Chờ suốt đến gần canh năm, tăm hơi Đoạt Hồn Kỳ vẫn cứ im lìm, Phương Bách Xuyên và Tạ Đông Dương đều biết rõ cá tính trả thù của Đoạt Hồn Kỳ, phần nhiều nằm trong khoảng từ canh ba đến canh năm mới hạ thủ, tuyệt chưa bao giờ phá lệ sớm hơn hoặc chậm hơn khoảng thời đã định đó.
Giờ hẹn sắp đến nơi vẫn chưa thấy bóng dáng gì lạ, không lý ký hiệu Trường Vĩ Vân Phất của Tây Đạo do Phương Bách Xuyên vẻ quả đã linh nghiệm rồi sao?
Thời gian một lúc một gay cấn hồi hộp, tâm tình Phương Bách Xuyên, Tạ Đông Dương càng lúc càng nặng nề! Mỗi thời gian trôi đi càng cảm thấy sự uy hiếp của tử thần càng gần thêm, hơn nữa hành tung của đối thủ lại thần kỳ bí hiểm, cứ xem các lệ xưa nay của y, đến không ai hay, đi không ai biết, dù có muốn liều chết với y một trận cũng không phải chuyện dễ dàng gặp được y.
Thượng Quan Linh cũng như cừu non mới ra đời đâu biết sợ cọp, cậu bé chẳng cần đếm xỉa đến gì là là Càn Khôn ngũ tuyệt hay Đoạt Hồn Kỳ, cứ việc ngồi trên ghế trường kỷ, lưng dựa vào vách tường, đánh ngay một giấc ngủ đâu vào đấy.
Tiếng gà vừa gáy, hướng Đông bắt đầu sáng dần, trong lòng hai người mới hơi yên dạ, biết mình đã thoát khỏi một kỳ đại nạn, đôi bên bắt tay chúc mừng lẫn nhau.
Phương Bách Xuyên vốn phải bôn ba đi Tân Cương cũng chỉ vì muốn cầu thỉnh Thiên Si đạo trưởng, nhưng khi nghe Tạ Đông Dương nói đã ghé thăm mà không gặp ở A Nhĩ Kim Sơn, dĩ nhiên cũng chẳng nên tới đó làm gì cho mất công thêm. Hỏi lại thầy trò Tạ Đông Dương, cũng chưa biết lúc này nhất định đi về đâu, bèn mời luôn hai thầy trò về Lã Lương sơn, xem coi Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn đã mời được bao nhiêu cao thủ lại trợ giúp để định kế đối địch với Đoạt Hồn Kỳ.
Thầy trò Tạ Đông Dương nhận lời ngay, cả ba nhắm thẳng hướng đông cho ngựa phóng đi, mặt trời đã đứng đỉnh đầu thì họ vừa tới Ha La Hồ.
Xuyên vào cánh rừng không bao lâu, thấy ngay một cây to có nhánh lớn xòe hẳn phía trên, trên thân nhánh ấy, một cây cờ đoạn đỏ dài hơn bảy tấc cắm ngay trên đó, thỉnh thoảng phất phơ vì ngọn gió. Hình sọ người và hai cái xương cháo màu trắng tinh ở ngay giữa lá cờ đỏ chói, trông vào lạnh người ghê sợ, chính là vụ Đoạt Hồn Kỳ mà đêm qua đã khiến họ nơm nớp hồi hộp suốt đêm, nhưng sau không thấy lại, không hiểu tại sao giờ này bỗng xuất hiện thình lình nơi đây?
Tạ Đông Dương lúc này giật mình kinh hoảng không ít, ghìm ngay cương cho ngựa dừng lại, nói với Phương Bách Xuyên:
- Này Phương huynh, quy luật xưa nay của Đoạt Hồn Kỳ, dù là những mối thù có lớn đến đâu chi chăng nữa, khi y ra tay để truy hồn đoạt mạng kẻ thù, luôn luôn được y thi hành vào đêm, mà vào giữa khoảng canh ba và canh năm, nhưng không hiểu tại sao giờ này nơi đây, đột nhiên lại có cờ này xuất hiện. Chẳng ra những nhân vật nổi danh như Càn Khôn ngũ tuyệt cũng đi nuốt lời sai hứa, phá lệ hành sự sao?
Phương Bách Xuyên cau mày suy nghĩ một chập nói:
- Từ ngày Đoạt Hồn Kỳ xuất thế lần thứ hai đến nay, hành tung của y càng đâm ra bí hiểm khó lường đoán hơn xưa nhiều. Chúng ta cần nên...
Câu nói chưa dứt, bỗng từ xa, đột nhiên có tiếng nói rất nhỏ truyền lại, từng tiếng một, tuy nhỏ và chậm nhưng rất rõ ràng:
- Lũ chuột vô tri kia! Chắc ăn phải mật gấu gan rồng gì rồi hả? Đã to gan rút lấy ngọn thần kỳ của ta thì chớ, lại còn cả gan dám xé hủy nó, đồng thời lại còn giả mạo, mượn danh thằng đạo gì Thiên Si để múa rối trò huyền hoặc. Sao không tự nghĩ thử cái đó, cho dẫu thằng ấy có thân hành tới đây, với thứ bản lãnh của hắn, chẳng qua cũng chỉ đáng để đọc kinh đuổi ma bắt quỷ mà thôi, dưới con mắt của ta chẳng coi hắn vào đâu! Hai lần phạm quy lệ cấm của ta, tội chết không dung, hôm qua tại ta bận việc chưa kịp lại, nên hôm nay ta đặc biệt rút ít thì giờ ở đây chờ đợi lũ ngươi. Nhưng thường thì sổ Diêm Vương chỉ định canh ba thì chết, quyết không thể để sống đến canh năm, nhưng trong mấy đêm nay ta đều bận rộn nên ta đặc biệt thi ân cho lũ ngươi, bản án hành quyết được đổi ra thành ban ngày, như vậy tránh bớt cho vong hồn lũ ngươi bị vất vưởng nơi địa ngục, có biết điều thì đừng có kiêu căng chống cự mà khổ, cứ ngoan đợi chết thì hay hơn! Đồng thời cũng nên hiểu rằng loại duyên cơ này khó mà gặp được như thế lắm, nhất là những kẻ được chết về dưới tay Đoạt Hồn Kỳ, ít nhiều gì cũng được kẻ là hạng người có may mắn đấy.
Tiếp đó là một giọng cười âm u rợn tóc gáy, tiếng cười giống hệt âm thanh của tiếng nói vừa rồi, vừa trầm vừa nhỏ, tợ hồ như làn tơ nhỏ bay bổng lên không, nhưng lại có một sức nhiếp hồn kẻ nghe, khiến cho tâm tư kẻ nghe phải bồi hồi rối loạn, râu tóc gợn từng hồi! Tiếng cười cứ kéo dài mãi, chừng như không hề đổi hơi, phảng phất vô định, chập ở hướng Đông, lúc lại ở Tây, bỗng lại ngay như trên đỉnh đầu, lúc lại như xa hẳn ngoài mười trượng. Ba người ba ngựa, có thể nói là bị tiếng cười nhiếp hồn bao phủ xung quanh mình.
Từ lúc nghe tiếng nói quái dị ấy, Phương Bách Xuyên và Tạ Đông Dương bèn kéo ngay Thượng Quan Linh nhảy xuống ngựa, ai nấy tuốt binh khí lo phòng vệ trước ngực, chăm chú đề phòng một sự biến cố hãi hùng sắp xảy ra.
Sau khi tiếng nói quái lạ vừa ngừng, tiếp theo là tiếng cười được phát ra, tình trạng kéo dài bao nhiêu thì hy vọng của Phương Bách Xuyên, Tạ Đông Dương càng tiêu tan bấy nhiêu vì họ thừa hiểu lối cười trứ danh này của Đoạt Hồn Kỳ gọi là Câu Hồn Âm Tiếu, nếu không gặp kẻ thù kình địch, không mấy khi lại phát khởi loại cười này. Chuyến này bởi Phương Bách Xuyên đã dám xé ký hiệu nổi danh của y, có lẽ vì thế mà y đến, đồng thời coi ba người như có mối thù khá sâu. Cứ theo thường lệ xưa nay của y, hễ khi tiếng cười Câu Hồn Âm Tiếu vừa chấm dứt, lập tức ra tay mở cuộc giết chóc thảm khốc rùng rợn ngay.
Nhưng khi con người ta biết chắc cái chết đã kề gần, tâm cảnh họ bỗng lại trở nên thoải mái lạ lùng. Tạ Đông Dương kéo tay học trò yêu của mình, vừa lên tiếng gọi Phương Bách Xuyên, cả ba đứng dựa hẳn lưng vào cây cổ thụ lớn tướng, như thế khỏi phải lo về mặt hậu, tập trung hết toàn lực để phòng ngự phía trước, chú ý sự tấn công chánh diện của địch.
Tiếng cười Tiêu Hồn Âm Tiếu của Đoạt Hồn Kỳ khi phát ra, càng lúc càng nhỏ dần, dần dần đến một độ có lại như không. Phương Bách Xuyên, Tạ Đông Dương biết ngay cuộc tàn sát ghê gớm sắp sửa mở màn tức khắc, họ nín thở lặng thinh chờ đợi, tiếng cười cứ lảng vảng theo gió lướt tới đâu, cả ba trố mắt kinh hoảng nhìn tới đó.
Cũng bởi chuyện Đoạt Hồn Kỳ mà Thượng Quan Linh bị thầy mắng cho mẻ nên thân, trong bụng cậu bé đã hận Đoạt Hồn Kỳ từ lâu. Lúc này thấy người ta không chịu lộ diện mà chỉ phát ra những tiến cười quái dị rợn người, cho thầy và sư bá càng lúc càng rối loạn tâm trí, cậu bé nào có biết đâu khi tiếng cười chấm dứt thì độc thủ tàn sát sẽ đến ngay, cậu cứ ung dung lớn tiếng gọi nói inh cả lên:
-... Bớ... ớ... Đoạt Hồn Kỳ!... Người là cái hạng anh hùng gì mà chỉ biết chui rúc trong rừng rồi cười lên những tiếng như ma khóc vậy? Nếu có bản lĩnh giỏi, hãy mau ra đây tỉ thí vài hiệp với tiểu hiệp sĩ này coi!
Vừa dứt lời, bỗng đám rừng phía sau lảng vảng có tiếng người nói lại:
- Nghe được lắm!
Tiếng cười Câu Hồn Âm Tiếu của Đoạt Hồn Kỳ lúc này đã chấm dứt, nhưng vẫn chưa thấy triệu chứng độc thủ gì của địch ra tay, chỉ thấy thinh không nhẹ nhàng rụng xuống ba chiếc lá cây khô, trên mỗi chiếc lá đều găm một cây kim trâm dài gần ba tấc, đuôi kim cài một miếng đoạn đỏ chói, phất phơ theo chiều gió, những miếng cờ đỏ ấy nghiễm nhiên vẫn là dấu hiệu sọ người và hai xương chéo trắng hếu, khiến kẻ nhìn không ớn mà phải lạnh xương sống.
Đang lúc cả ba ngồi ngơ ngác, bỗng đám rừng phía sau, lại có một giong cười khác lạ truyền đến tai mọi người.
Tiếng cười này khác hẳn với tiếng cười Câu Hồn Âm Tiếu của Đoạt Hồn Kỳ. Loại cười Đoạt Hồn Kỳ càng cười càng nhỏ, càng nhỏ càng yếu, nhưng trận cười sau này lại càng cười càng lớn, càng lớn càng mạnh. Câu Hồn Âm Tiếu âm u thê lương, hớp tâm hồn kẻ nghe, khiến cho họ bồi hồi trong tâm trí. Tiếng cười đến sau thì lại hùng tráng khí dũng, như có thể nứt đá xuyên mây.
Một âm một dương, một mềm một cứng, trước sau hai tiếng cười đối chọi nhau một cách kịch liệt! Lúc này Phương Bách Xuyên, Tạ Đông Dương và Thượng Quan Linh đâm ngớ ngẩn người ra, trong bụng ai nấy nghi hoặc lạ lùng, chẳng hiểu những gì đã xảy ra trong lúc hoang mang này.
Tiếng cười hùng mạnh vừa ngừng, âm thanh nhi nhí của Đoạt Hồn Kỳ lạnh lùng lảng vảng nói:
- Hừ! Không ngờ thằng đạo già quả thật có nơi đây! Nay tạm nể mặt ngươi, tạm khoan dung tử hình cho ba mạng chuột nhắt kia lại một dịp khác, ta vì bận chuyện phải đi gấp, nếu lão già đạo sĩ có cao hứng, tội gì không đi nghêu ngao về miền Trung Nguyên tìm kiếm mấy thằng già chưa chết kia, để mở lại một cuộc đấu chia ngôi thứ cho biết cao thấp, thử xem trong hai mươi năm nay, đứa nào là kẻ làm biếng nào.
Tiếng nói vừa dứt, tứ bề bỗng lại im lìm như tờ, Phương Bách Xuyên lúc này mới sực nhớ ra, mình làm giả mà hóa thật, ai ngờ vẽ ra cây Trường Vĩ Vân Phất mà quả nhiên đã khiến Thiên Si đạo trưởng Tây Đạo ra mặt trong lúc nguy cấp này.
Lòng mừng quá đỗi, nhưng chờ mãi một hồi, trong rừng vẫn im lìm như cảnh chết. Phương Bách Xuyên khao khát muốn được gặp Thiên Si đạo trưởng để dễ bề mời mọc ông ra tay giúp cứu cho người bạn già Thường Tử Tuấn. Nhưng chờ mãi không thấy xuất hiện, lại sợ những bậc kỳ nhân như họ chuyên thích chơi lối Thần Long Kiến Thủ Bất Kiến Vĩ để tránh mặt không muốn cho gặp những hạng người thường như mình, nghĩ vậy vội hấp tấp đánh tiếng lớn gọi vào rừng:
- Kính Thiên Si đạo trưởng, Phương Bách Xuyên này không quản ngàn dặm xa xôi lặn lội đến đây, có việc muốn cầu xin đạo trưởng, vậy xin ngài cho kẻ ngu này được gặp mặt bẩm rõ mọi sự.
Tứ bề vẫn im lặng, không tiếng trả lời! Phương Bách Xuyên biết mình đoán không sai, người ta đã đi từ lâu, bất giác thở dài buồn bã, bèn quay người cúi nhặt ba chiếc lá khô vừa rụng xuống vừa rồi, thấy rõ ba ngọn Đoạt Hồn Kỳ nhỏ cắm trên ba lá cây, đúng ba cây dài ước ba tấc, ba miếng đoạn đỏ nhỏ ấy đều có vẽ hình sọ người và hai xương chéo màu trắng.
Phương Bách Xuyên bất giác lắc đầu than với Tạ Đông Dương rằng:
- Hiền đệ ạ! Công lực của anh em chúng mình như thế cũng đã tưởng là ghê gớm lắm rồi! Nào ngờ đem so với Càn Khôn ngũ tuyệt, quả thật còn thua kém xa! Nội tiếng cười Câu Hồn Âm Tiếu của Đoạt Hồn Kỳ khi phát ra, tứ phương bát hướng đều như có tiếng cười, cứ tính theo sức lực của chúng ta hiện có, đến nỗi hình dạng của người ta ở đâu còn chưa nhận ra! Ba cây Đoạt Hồn Kỳ nhỏ bé thế này mà cũng không biết người ta phóng ra từ hồi nào! Nếu không có ba chiếc lá khô của Thiên Si đạo trưởng đỡ hộ trong cơn nguy cấp ấy, chẳng hóa ra chúng mình đều chết một cách quá hồ đồ lắm sao?
Tạ Đông Dương từng luyện nghệ lâu năm ở miền Nam Cương, làm gì không khỏi tự phụ trong lòng? Thoạt đầu tuy bị hung danh của Đoạt Hồn Kỳ chấn kinh, nhưng trong bụng vẫn nghĩ, nếu vạn nhất cũng ráng dốc hết toàn lực tuyệt học của mình ra liều một phen, chưa chắc gì đã bị thiệt mạng về tay người ta.
Nhưng chính lúc này, mắt được thấy công lực thần kỳ của đối phương, bất giác lạnh người, nghe thêm lời than vãn của Phương Bách Xuyên, thì chỉ còn có nước gật đầu cười ngượng, lòng tự oán lòng: từng hiên ngang miền Nam Cương, được muôn người tôn kính, những ngày sống thần tiên không muốn, mà đi dắt đứa học trò ngông cuồng về Trung Nguyên như thế này, Thượng Quan Linh vốn là đứa trẻ bạo gan lớn phổi, không biết chữ sợ là gì, từ nay trở đi, không biết nó có còn gây ra họa lớn gì hay không?
Hai vị lão anh hùng biết rõ sự lợi hại của địch thủ, ai nấy cũng đang lo ngại trong lòng. Riêng phần Thượng Quan Linh lại cảm thấy thú vị về những sự kiện lạ lùng đang xảy ra, cậu bèn quay hỏi thầy:
- Thưa thầy! Vậy những lá cờ Đoạt Hồn Kỳ được chia ra cả thảy mấy loại? Tại cớ sao lúc thì dài, khi lại ngắn, cây mà con rút ở Bạch Long Đôi, cán cờ bằng tre, mà cây trên lá khô này lại bằng cây kim vàng găm đoạn đỏ như thế?
Phương Bách Xuyên cười nói:
- Ầy... Thầy cháu sống ở Nam Cương đã lâu, những chuyện ly kỳ chắc không biết rõ bằng bác đâu! Loại cờ Đoạt Hồn Kỳ chia ra tất cả làm ba loại, thứ mà kim trâm vàng cắm trên lá khô, đây là loại dùng để giết người; loại cán cờ bằng tre ấy là thứ ký hiệu của y; còn loại vẽ trên bức tường quán trọ tức là báo trước cho khổ chủ, nếu mà vẽ một lá, thế nào đêm đó cũng lại, còn nếu vẽ loại cờ bằng máu, tức là cho biết mối thù rất lớn, kẻ bị giết sẽ bị tận diệt hết toàn gia, bất luận già trẻ lớn bé, không chừa một mạng nào thoát khỏi.
Nghe xong lời kẻ của Phương Bách Xuyên, Thượng Quan Linh tỏ vẻ không phục, cậu xoe tròn đôi mắt của mình hỏi:
- Theo cháu thì kẻ quân tử xử thế trên giang hồ, thứ nhất phải kể đến tư cách nhân phẩm, võ công chẳng qua đứng vào hàng thứ yếu mà thôi. Đoạt Hồn Kỳ quá hung ác như thế, tại sao bốn vị Càn Khôn ngũ tuyệt như Tây Đạo, Đông Tăng, Nam Bút, Bắc Kiếm không trừ khử quách y đi để đến nỗi di hại cho làng võ lâm như thế?
Nói tới đây, cậu bé cảm thấy sau lưng có gì khẽ động vào mình, nhưng Phương Bách Xuyên, Tạ Đông Dương hai người không hay biết gì, tính Thượng Quan Linh vốn đã khôn lanh, cậu không đả động gì, nhẹ đưa tay rờ quanh về phía sau, không ngờ sờ đúng một chiếc lá khô rời ngay gấu áo của mình, cậu len lén gỡ bỏ ngay vào túi!
Hai lão anh hùng thấy Thượng Quan Linh tuổi tuy nhỏ nhưng ăn nói có vẻ chững chạc đích xác, không bị sức mạnh cường hào uy hiếp tinh thần, trong lòng ngấm ngầm khen phục, Phương Bách Xuyên mỉm cười rằng:
- Năm vị tuyệt thế cao nhân này, ai nấy đều có quái tật riêng của họ, đến như Thiên Si đạo trưởng vừa rồi kia, rõ ràng đã có mặt nơi rừng cây này, thế mà không hiểu tại sao không chịu ra gặp mặt bọn mình? Cả đến Đoạt Hồn Kỳ xưa nay hành sự, thiện ác tùy lòng hứng! Không ai có thể lường biết trước được! từ ngày xuất thế lần thứ hai đến nay, ba đứa con trai của Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn bị giết hại như thế, đã gây nên sự công phẫn của giới giang hồ, nhưng khi hủy diệt sào huyệt của bọn cướp bể Kim Giao Bào Trưởng Hùng lại khiến nhiều người mến phục vui mừng, nay Đoạt Hồn Kỳ đã phiêu bạt trên giang hồ, Tây Đạo cũng vừa xuất hiện hiệp tích ở đây, nếu quả Đông Tăng, Nam Bút, Bắc Kiếm hãy còn sống ở trần gian này mà họ lại chịu góp phần hào hứng với nhau, chừng đó quả là một sự kiện hiếm thấy trong làng võ lâm ngày nay.
Nam Cương ẩn hiệp Tạ Đông Dương nghe Phương Bách Xuyên nói tới đây, sắc mặt buồn thảm nãy giờ bỗng tiêu tan hẳn, lão bật tiếng cười ha hả rằng:
- Tiểu đệ vốn hối tiếc chuyện đưa ái đồ Thượng Quan Linh đi viễn du miền Trung Nguyên để đến nỗi bước vào cuộc sóng gió nguy hiểm này! Nhưng nay nghĩ cho kỹ, đời người có sống được là bao? Đã hai mươi năm nay, bỗng lại lục đục hiện thân ra như thế, tuy đã lôi cuốn cả mình vào trong ấy, biết đâu chẳng nhờ thế mà biết thêm nhiều bậc tuyệt nghệ cao nhân trên đời, vậy thì dẫu có bị chết tan xương thành tro bụi đi chăng nữa thì cũng đáng lắm.
Phương Bách Xuyên đã tưởng Tạ Đông Dương mất hết những hào khí anh hùng xưa kia, nào ngờ lại nghe ông bạn mình thốt ra những câu hùng hồn khí phách như thế, bèn mỉm cười vui mừng rằng:
- Kể ra võ học của hiền đệ cũng chẳng phải tầm thường gì, nhất là hiền đệ đã ẩn tích ở Nam Cương trên mười năm nay, đương nhiên là phải làm tinh...
Lời nói còn chưa dứt, Tạ Đông Dương bỗng đau khổ ngượng cười cắt đứt lời của Phương Bách Xuyên rằng:
- Ba năm trước đây, tiểu đệ từng lo nghiên cứu về Hỗn Nguyên chân lực, trong lúc di cung bí huyệt, tiểu đệ vì bất cẩn nên đã bị xú khí, suýt thì mất các võ công đã học bấy lâu! Tuy đã cố sức luyện chữa lâu nay nhưng vẫn chưa giải được huyệt sinh tử huyền quan, nếu không bị xú khí như vậy, quả thật tiểu đệ cũng muốn thử súc với Đoạt Hồn Kỳ một chuyến cho biết mặt.
Phương Bách Xuyên nghĩ Tạ Đông Dương luyện công lực bị xú khí, bất giác cũng hoài tiếc buồn cho bạn, nhưng cũng thừa biết lối giải huyệt sinh tử huyền quan rất khó, cần phải những tay công lực cao cường mới mong giải nổi, sức mình chưa đến mức tuyệt độ ấy để giúp bạn, bèn nói với thầy trò Tạ Đông Dương:
- Nay Thiên Si đạo trưởng đã không muốn ra mặt, chúng ta hà tất phải ở lại đây làm gì? Chi bằng cứ về hẳn Lã Lương sơn tìm đến Hạo Thủ Thần Long Thường Tử Tuấn đằng Lục Trúc sơn trang, thương lượng mưu kế để cùng trả thù luôn thể cho tiện việc.
Thầy trò Tạ Đông Dương phi thân lên ngựa, Thượng Quan Linh cố ý đi đủng đỉnh chậm lại phía sau, nhường cho thầy và sư bá đi ra rừng trước, còn mình thừa cơ móc luôn chiếc lá khô vừa rồi ra xem, chỉ thấy trên lá khô khắc nguệch ngoạc bốn chữ: “Đêm nay đừng ngủ”.
Trong lúc đi, Phương Bách Xuyên mải lo nghĩ sự an nguy của bạn già Thường Tử Tuấn, nên suốt dọc đường cứ ra roi quất ngựa cho nhanh thêm, mới hơn nửa ngày lộ trình đã chạy hơn hai trăm dặm, luôn luôn bỏ lỡ hẳn mấy trạm lớn, đành phải nghỉ lại một thôn trang nhỏ.
Trước khi ngủ, vì muốn đề phòng sự thần bí của Đoạt Hồn Kỳ đến bất thần, Tạ Phương nhị lão anh hùng đặc biệt thân hành đi xem xét tất cả xung quanh nhà một lượt, phía sau là một ngọn đồi, cây cối cũng khá nhiều, nhưng vì chưa thấy phát hiện một dấu hiệu gì lạ nào, đồng thời đã biết Đoạt Hồn Kỳ bị Tây Đạo đuổi khéo, trong thời gian ngắn này chưa chắc đã lại ngay được, nhưng mọi người cũng chuẩn bị binh đao ám khí sẵn sàng, để ngay những nơi thuận tay nhất phòng khi hữu sự, ai nấy mặc nguyên quần áo để ngủ.
Suốt một đêm qua đã phải thức trong cảnh hồi hộp hãi hùng, hôm nay trừ cảnh sinh tử hiểm nghèo buổi trưa ra, lại bị vất vả suốt quãng đường dài như thế, lẽ dĩ nhiên ai cũng mệt mỏi lắm, nên hai lão anh hùng còn ngồi tựa thành giường dưỡng thần phòng hờ mọi bất trắc có thể xảy ra, nhưng sau canh một họ đều thiu thiu ngủ say lúc nào không hay.
Thượng Quan Linh cũng đâu thoát khỏi sự mệt nhọc? Nhưng cậu bé biết đêm nay mình còn có việc, trước khi ăn cơm tối cậu đã ngủ được một giấc ngon, giờ này hai mắt cứ thao láo nhìn trần nhà, thỉnh thoảng lại đưa chiếc lá khô lên ngắm bốn chữ: “Đêm nay đừng ngủ”.
Cậu tính nhẩm trong bụng, canh ba cũng đã điểm từ lâu rồi, có lẽ sắp điểm canh tư là khác, sao vẫn chưa có chuyện lạ gì xảy ra, đối với vị dị nhân đã phi diệp truyền thư (đưa thư bằng lá bay) dặn mình đừng ngủ là có dụng ý gì đây?
Nghĩ đến đây, cậu bất giác thò tay vào túi sờ môn ám khí của thầy truyền cho mình và cây vũ khí thường dùng là cây Văn Xương bút, trong lúc ấy cậu nghĩ: nếu Đoạt Hồn Kỳ đêm nay tới càng hay, với tính kiêu căng tự đại của y, để mình dùng thử môn ám khí Tử Phi Hoa đánh cho y một thế Mãn Diện Phi Hoa (Hoa vung đầy mặt), xong tặng thêm mấy nét chấm phá của Văn Xương bút luôn một thể, để sáng ra thầy và sư bá phải kinh ngạc một phen cho thích.
Đang lúc cậu nghĩ đến chỗ khoái chí nhất, bên ngoài phong la bắt đầu điểm canh tư, Thượng Quan Linh vẫn chưa thấy gì lạ xảy ra, lại gần hết một canh nữa, trời sắp gần sáng, cậu bé bắt đầu cau có bực mình. Bỗng trong lúc tịch mịch ấy, hình như có tiếng người gọi nhỏ, âm thanh nhỏ đến nỗi như có lại như không, nhưng vẫn có thể phân biệt rõ ràng về âm ngữ:
- Này cậu nhỏ kia! Hãy đến ngay đồi cây ở phía sau, nhớ đừng có làm thức giấc thầy và sư bá của cậu!
Thượng Quan Linh biết có người lại, tinh thần bắt đầu phấn khởi ngay, nhè nhẹ hai chân bước xuống giường, khẽ mở cửa sổ, tung người phi thân luôn ra ngoài.
Trăng lưỡi liềm xế đỉnh đồi, sao hôm chênh chếch trên đỉnh cây, cả khu rừng đồi còn tối mờ, tứ bề im lặng âm u.
Nhưng Thượng Quan Linh không hề nao trí, hai lần tung thân, cậu đã nghiễm nhiên xuyên vào rừng, bỗng trên cánh trái có tiếng người rằng:
- Kể đảm lượng cậu bé cũng khá thật! Chứ cậu không ngán Đoạt Hồn Kỳ ư?
Thượng Quan Linh ngửng đầu theo phía phát ra tiếng nói, ngay nơi cành cây ngang của cây cổ thụ, thấy một đạo sĩ gầy nhom trạc trên ba mươi tuổi với chiếc áo đạo bào rách tả tơi ngồi ngất nghểu ở trên, tay trái cầm hồ lô rượu thơm ngát, tay phải đương loay hoay thò trong túi đạo bào móc vật gì đó bỏ vào miệng nhai ăn, trông có vẻ thú vị lắm.
Cậu bé ngẩng đầu trả lời:
- Đoạt Hồn Kỳ cũng chỉ là người mà thôi, có khác chăng là y hung tàn bạo ác một cách đáng ghét, như thế thì có gì là đáng sợ? Đạo trưởng ăn gì mà thơm phức vậy? Cho cháu xin chút được không?
Dứt lời, cậu bé tung mình phi lên, cùng ngồi vất vưởng cạnh bên đạo sĩ.
Đạo sĩ liếc nhìn cậu bé nhí nhảnh ấy, rồi đưa qua một nắm đậu phụng, Thượng Quan Linh vội chìa hai tay hứng nhận, cũng bỏ từng hột đậu vào miệng ăn ngon lành, không một lời cám ơn mà còn hỏi đạo sĩ rằng:
- Cháu biết đạo trưởng đây nhất định là người mà trưa nay đã cứu nguy cho thầy trò cháu ở khu rừng gần Ha La Hồ, tên gọi Thiên Si đạo trưởng, nay cháu có ít việc muốn nhờ đạo trường giúp hộ, nhưng không biết đạo trưởng có vui lòng giúp cháu không?
Thiên Si đạo trưởng hừ một tiếng bằng giọng mũi nói:
- Cậu bé lại muốn học nghề võ với ta chứ gì?...
Chưa dứt lời, Thượng Quan Linh đã lắc đầu lia lại rằng:
- Nghề võ đã có thầy cháu truyền dạy, nhưng cháu nhận thấy con người Đoạt Hồn Kỳ hung ác tàn bạo, cháu có ý muốn thử một trận thư hùng với y, vậy đạo trưởng có cách gì giúp cháu không?
Thiên Si đạo trưởng thấy Thượng Quan Linh nghiễm nhiên không đòi học võ với mình mà lại đòi đấu thử với Đoạt Hồn Kỳ, thật ngoài sự tưởng tượng của đạo sĩ, bèn đưa tay sang nắm rờ hết gân cốt trên người cậu bé, rồi lắc đầu cười rằng:
- Cậu có biết Đoạt Hồn Kỳ lợi hại như thế nào không? Đừng nói là với chút bản lãnh nhỏ nhen của cậu, đến như thầy và sư bá của cậu cũng còn thua kém ra một trời một vực là khác...
Thượng Quan Linh hấp tấp trả lời:
- Cháu có môn ám khí Tử Phi Hoa có thể nói là độc đáo và bá đạo nhất trên giang hồ hiện nay!
Thiên Si đạo trưởng phì cười văng cả đậu phụng trong mồm ra nói:
- Loại Tử Phi Hoa của cậu tuy là luyện bằng thứ vàng tím ở miền Tây Vực, và mỗi khi ra tay bay tung khắp cả một vùng, vật cứng đến đâu cũng phải thủng, nhưng chỉ có thể đem ra đối phó với những nhân vật võ lâm tầm thường mà thôi. Nếu mà cậu trông cậy vào thứ ám khí này để thư hùng với Đoạt Hồn Kỳ, chẳng khác nào cậu đang bỏ đậu phụng vào miệng mà nhai, nghĩa là có đi không có về.
Cậu bé thấy thầy mình truyền lại loại ám khí Tử Phi Hoa này cho mình, tưởng đã liệt vào loại ám khí độc đáo nhất trên giang hồ, nay lại bị Thiên Si đạo trưởng đánh giá không đáng, cậu bé càng bực bội không phục, ngước mày nói thêm rằng:
- Cháu còn biết cả ba mươi sáu đường Văn Xương bút pháp, đồng thời có thể điểm một trăm linh tám huyệt lớn nhỏ trên thân người ta!
Thiên Si đạo trưởng thấy bộ mặt có vẻ đắc trí của Thượng Quan Linh, bộ mặt không biết sợ trời cao đất dày là gì, chỉ mỉm cười với cậu bé, bỗng đạo sĩ nheo mắt, hình như sực nhớ ra gì, quay ngay mặt lại hỏi:
- Ủa! Chứ cậu cũng dùng bút à?
Nghe giọng nói có vẻ kinh ngạc của Thiên Si đạo trưởng, cậu bé mừng khấp khởi vội hỏi:
- Thưa đạo trưởng! Đoạt Hồn Kỳ chắc sợ bút lắm hả?
Câu hỏi ngây thơ hồn nhiên của cậu bé khiến Thiên Si đạo trưởng phải bật tiếng cười ha hả rằng:
- Cậu đoán không sai tý nào, quả Đoạt Hồn Kỳ có sợ bút lắm! Nhưng không phải y sợ loại ba mươi sáu đường Văn Xương bút pháp của cậu đâu, mà chính y sợ cây Kình Thần bút của Gia Cát Dật, một cây bút số một ở dưới vòm trời giang hồ này.
Thượng Quan Linh lại bĩu môi không phục, Thiên Si đạo trưởng lại nói:
- Bây giờ ta đã nghĩ ra được một cách, may ra có thể khiến cậu đến chơi với Đoạt Hồn Kỳ được.
Cậu bé mừng quá, vội rối rít xin đạo trưởng dạy, Thiên Si đạo trưởng cười nói:
- Nếu trên dọc đường, hễ con thấy ký hiệu của Đoạt Hồn Kỳ xuất hiện, nhưng cần phải giấu thầy và sư bá của cậu mới được, ngay bên cạnh ký hiệu của Đoạt Hồn Kỳ, cậu hãy vẽ một cây bút nan đen lòng trắng, và đề hai câu thơ lên.
Thượng Quan Linh vội hỏi:
- Dạ loại thơ gì? Hay tùy ý thích của cháu?
Thiên Si đạo trưởng lại cười rằng:
- Thơ của cậu làm sao mà được. Phải đề như vầy:
Danh bài Tây Đạo Đông Tăng hậu,
Gia tại thiên đái Nhai Đãng Gian!
(Nghĩa: Tên được xếp sau Tây Đạo và Đông Tăng, nhà ở đỉnh núi Nhai Đãng Gian), nhưng câu trên bên phải dùng lối chữ thảo viết, câu dưới lại dùng lối chữ lệ, thế cậu có biết lối chữ lệ không nào?
Thượng Quan Linh không rành về hai lối chữ lệ và triện, loại chữ thảo thì còn tạm có căn cơ, vừa tính trả lời câu nói của đạo sĩ, Thiên Si đạo trưởng ghé gần tai cậu bé nói:
- Thầy và sư bá của cậu đã tìm đến kia kìa, giờ đây ta không muốn gặp mặt họ, vậy cậu đừng nói chuyện đêm nay ra làm gì, cậu hãy uống viên linh đơn này đi. Đồng thời ta cho cậu mượn tạm quyển sách nhỏ này trong nửa năm, xem coi duyên số tạo hóa của cậu sau này ra sao cho biết!
Dứt lời, dúi ngay vào tay Thượng Quan Linh một quyển sách nhỏ chừng ba tấc vuông và một viên linh đơn, xong xuôi dùng đằng thân pháp vụt bỗng toàn thân biến dạng luôn trong đám rừng âm u, không hề để lại một động tĩnh nào.
Thượng Quan Linh lúc này cũng chợt nghe rõ tiếng Dạ hành Phong (Tiếng gió đi đêm) phát ra từ phía dưới, cậu hấp tấp từ nhánh cây nhảy tụt mau xuống đất, vờ vẫn đi bách bộ như đang ngoạn cảnh rừng.
Quả nhiên Phương Bách Xuyên và Tạ Đông Dương đang song song tiến vào rừng, thấy Thượng Quan Linh đương chấp tay sau lưng, đứng ngước nhìn cảnh trăng lưỡi liềm, Tạ Đông Dương giận la lên:
- Suốt đêm qua đến trưa nay, chúng ta đều sống trong tình trạng kinh hiểm tuyệt luân, tại sao mỗi lần con đi đâu cũng không chịu báo trước cho thầy và sư bá hay?
Thượng Quan Linh làm ra vẻ bị oan ức, cong môi nói:
- Con trằn trọc mãi cũng không ngủ được, lại sợ làm thức giấc thầy và Phương sư bá, nên con lén ra đây đi bách bộ, ngắm cảnh trăng cho khuây khỏa, nào đã chắc gì Đoạt Hồn Kỳ đã đoạt nổi hồn của con đâu mà thầy cứ rầy la con hoài.
Tạ Đông Dương cũng đành chịu tính nết ngổ ngáo của đứa học trò cưng mình, cả ba lại lững thững về phòng đi ngủ, hôm sau lại lo khởi trình đi Lã Lương sơn.
Dọc đường, Thượng Quan Linh len lén giở xem quyển sách mà Thiên Si đạo trưởng đã cho mượn trong vòng nửa năm, khi giở xem bên trong, không thấy có một chữ nào, và chỉ thấy vỏn vẹn mười tám bức vẽ thế tọa công (Hình người ngồi nhập định), nhưng mỗi bộ mặt đều khác hẳn nhau.
Còn viên linh đơn to bằng hột nhãn, ngoài bao một lớp sáp đỏ, cách chế tạo xinh đẹp, Thượng Quan Linh tiếc rẻ không nỡ uống mà lại để dành trong túi làm đồ chơi. Cậu bé đối với quyển sách này, không làm sao thấu hiểu sự huyền ảo trong đó của nó, nên đành gấp lại, cất luôn vào trong người, vô tình đã bỏ lỡ mất một dịp kỳ duyên với quyển sách quý mà hầu hết giới võ lâm thèm khát suốt cả một đời người mà không gặp.
Cuộc hành trình vẫn tiến hành hấp tấp, và cũng có thế mà luôn luôn bị lỡ đường trọ, một hôm, tạt ngang Cam Châu, chưa tới Lương Châu, trời đã chập choạng tối dần, lại gặp cơn mưa lớn, cả ba đều ướt như gà bị nhúng nước, Tạ Đông Dương thấy cạnh đường cái ước ba trượng xa, cây cối lưa thưa hiện ra một nóc nhà cũ, bức tường màu đỏ nổi bật hẳn trong đám cây màu xanh, lão bèn gọi Phương Bách Xuyên. Chờ ngựa dừng lại, cả ba xuống dắt ngựa đi bộ vào.
Thì ra đây là một ngôi miếu không lớn, nhưng cũng không nhỏ. Bởi không tu sữa đã lâu năm, trông miếu tiêu điều hoang vu, đầy mạng nhện và bụi bặm, cảnh vật im lìm buồn bã.
Cả ba cột ngựa ngoài bên miếu, Phương Bách Xuyên lững thững bước vào trong điện, thình lình khẽ ý lên một tiếng, vì lão thấy cạnh bức tượng Bồ Tát, có một xác người treo cổ tòang teng ngay đó! Vội tung thân nhảy tới, khẽ rờ vào người nạn nhân, thấy còn hơi ấm, hai lão anh hùng đối với lối cấp cứu người treo cỗ vẫn như thế, đương nhiên là tay thiện nghệ, họ xúm vào xoa bóp sơ các đường huyết mạch trên toàn thân, một chập thấy nạn nhân đã thở. Nhưng lúc Tạ Đông Dương rờ tới phía eo bụng của nạn nhân, bỗng phát giác loại kim khí nhuyễn và ám khí, biết ngay cũng thuộc nhân vật trong võ lâm.
Nạn nhân được cứu sống, tuổi trạc tứ tuần, sau khi mơ màng hồi tỉnh, nhìn hết mọi người một lượt, thở dài não nề rồi nhắm nghiền mắt lại không nói năng gì. Cả ba người đều trố mắt nhìn nhau, không hiểu nạn nhân vì lý do gì mà lại tự tử trong ngôi miếu hoang vu này?