Định Hải Phù Sinh Lục

Quyển 3 - Chương 69




Hôm sau, Hạng Thuật chuẩn bị ra ngoài, thấy Trần Tinh cũng thay y phục, rõ ràng muốn đi cùng.

“Đêm qua ngủ ngon không?” Hạng Thuật hỏi thăm.

Hắn hỏi Trần Tinh, nhưng Tạ An vẫn còn ngái ngủ trả lời: “Hiếm khi không cần vào triều, lẽ ra phải ngủ một giấc ngon lành, ai ngờ nửa đêm hôm qua có hai con chim hót ầm ĩ, hại ta trằn trọc ngủ không yên, mãi tới hừng đông mới chợp mắt được.”

Khóe môi Trần Tinh khẽ giật: “Ồ? Có chim? Sao ta không nghe thấy.”

Tạ An: “Có đó, một con bay từ phía Tây, một con khác bay từ phía Đông, mi rượt ta đuổi… ban đầu bay thế này, rồi bay thế này…” Nói đoạn, y múa may diễn tả: “Con phía Tây tự dưng bất động, cứ kêu ra rả bên tai ta, các ngươi có thấy kỳ không?”

Hạng Thuật: “……”

Trần Tinh: “???”

“Đi thôi.” Hạng Thuật nói.

“Ta đi với huynh.” Trần Tinh đứng dậy.

“Ê ê!” Tạ An cười nói, “Đừng gấp, dẫn huynh theo với! Đừng hòng bỏ huynh lại!”

Trần Tinh: “Huynh tự đi đi, đừng ở cùng ta, lỡ lát nữa Thi Hợi tới bắt ta thì sao?”

Tạ An: “Phải nhỉ, lỡ kẻ địch tới, xương già của huynh cũng không đánh được.”

“Trần Tinh! Các ngươi định đi đâu đó?” Tiêu Sơn nói, “Ta đi nữa!”

Trần Tinh đành dẫn Tiêu Sơn theo, Hạng Thuật tính cưỡi ngựa đi nhanh về nhanh, ngờ đâu Tạ An đã chuẩn bị xe ngựa như sắp đi du ngoạn, còn sai người thông báo cho Phùng Thiên Quân. Sau đó Phùng Thiên Quân dẫn Cố Thanh theo, đúng lúc Tạ Đạo Uẩn đến thăm Cố Thanh, thành thử biến thành cả sở trừ tà kéo nhau đi, thêm hai đại phu, cả bọn rời khỏi Kiến Khang, nói cho xuôi là giải quyết công việc, thực chất là đến núi Nam Bình ăn ngon mặc đẹp, thả diều giữa mùa thu mát mẻ.

Ban đầu Xích Bích tên là Bồ Kỳ, dãy núi trải dài vô tận tựa như long mạch của trời đất, ba ngọn núi Xích Bích, Nam Bình và Kim Loan được kết nối với nhau.

Trời mây trắng xóa, núi non sừng sững hướng ra Trường Giang và Hồng Hồ ngàn dặm. Giữa trời thu vời vợi, lá phong trên núi rực đỏ như lửa, cây bạch quả vàng kim xếp chồng lên nhau, đồng thời có thêm cây du, cây dâu, cây ngô đồng điểm tô, lớp này đè lên lớp khác, trải dài vạn dặm, soi mình lên mặt Hồng Hồ xanh biếc, thác đổ trên núi như dải lụa trắng đang bay.

Trong sơn có thủy, trong thủy có sơn, các khoáng vật sặc sỡ màu như thổ hoàng, chu sa, đan sa, v.v… hòa tan trong núi sông, quả thật là cảnh đẹp nhân gian được đất trời chế tác một cách tài tình.

Quận thú Vũ Xương hay tin Tạ An đến, bèn vội phái đội thuyền mặc Tạ An sai sử, vài chiếc thuyền nhỏ được neo trên hồ dưới chân núi, Tạ An không muốn bị quấy rầy, nên cuốc bộ một mạch lên núi Nam Bình. Khi đến lưng chừng núi, Trần Tinh lấy thư tay của Trương Lưu được Hạng Thuật chép lại ra, đối chiếu với ba ngọn núi trước mặt và hồ lớn dưới núi, nhìn từ góc độ này thì quả thật là núi Nam Bình.

Hạng Thuật hỏi: “Đàn thất tinh ở đâu?”

Tạ An đáp: “Ngay lưng chừng núi, trên vách đá đối diện Hồng Hồ, đi, ta dẫn các ngươi tới đó.”

Trời chiều mưa bụi lất phất, khi còn bé Tạ An đã khám phá biết bao núi đồi nổi danh, với trí nhớ cực tốt của mình, y lên núi Nam Binh như ngựa quen đường cũ, cầm ô giấy cất bước lẹ làng, rẽ được mấy vòng đã dẫn đầu, thay vào đó Trần Tinh kéo vạt áo bào, thở hồng hộc đi phía sau, đuổi không kịp Tạ An.

Tạ Đạo Uẩn đi cùng Tiêu Sơn, thấy vậy bèn gọi vài tiếng, sau đó chủ động dừng lại chờ Trần Tinh.

“Tính ra ngươi chơi hợp với Tiêu Sơn đó.” Trần Tinh cười bảo.

Khoảng thời gian Trần Tinh nằm trên giường, Tạ Đạo Uẩn thường đến chẩn bệnh cho cậu, qua lại mấy lần liền thân thuộc với Tiêu Sơn, hôm tiến cung gặp Tư Mã Diệu, Tạ Đạo Uẩn còn hẹn tỷ thí một trận với nó.

“Tiểu huynh đệ lúc nào cũng lo nghĩ cho ngươi,” Tạ Đạo Uẩn nói, “sao ngươi cứ luôn vô tâm vô phế?”

“Ta vô tâm chỗ nào?” Trần Tinh khó hiểu.

Tạ Đạo Uẩn xùy một tiếng, không nói nữa, Trần Tinh hoài nghi nhìn Tạ Đạo Uẩn: “Chắc ngươi không có ý đồ gì với con nuôi ta chứ?”

“Thầy từ tà, đầu ngươi không chứa được gì khác à?” Tạ Đạo Uẩn lập tức nổi giận.

Tạ Đạo Uẩn ở cùng Tiêu Sơn hệt như một đại tỷ tỷ, tổ hợp này khiến Trần Tinh hết sức bất ngờ.

Trần Tinh đương nhiên biết Tiêu Sơn sẽ trưởng thành rất nhanh, thậm chí mấy năm nữa có thể tìm được người mình thích. Theo tập tục Tấn quốc, mười bốn đã hỏi cưới được rồi, người Hung Nô còn sớm hơn nữa kìa. Song trong lòng cậu Tiêu Sơn vẫn còn quá nhỏ, mặc dù nửa năm qua đã cao thêm không ít, nhưng nó vẫn chỉ mới mười hai tuổi thôi.

Sau khi suy nghĩ kĩ càng, cậu thừa nhận mình ‘vô tâm vô phế’ thật, bởi cậu hy vọng Tiêu Sơn có thể nhanh chóng trưởng thành, chí ít đừng quá lưu luyến cậu giống Lục Ảnh. Nếu không, nó sẽ mãi là đứa trẻ chưa lớn, rồi vài năm sau mình qua đời, Tiêu Sơn làm sao có thể tự lập đây? Vậy nên cậu không còn coi nó là trẻ con như hồi còn ở Cáp Lạp Hòa Lâm, mà đối đãi nó như một người trưởng thành giống mình, dạy nó đọc sách viết chữ, tránh thể hiện quá nhiều cảm xúc.

Đồng thời để nó kết bạn nhiều hơn, giao tiếp nhiều hơn, để trong thế giới của Tiêu Sơn không chỉ có mình Trần Tinh.

Trần Tinh cảm thấy Tiêu Sơn cái gì cũng biết, mà thực ra Tiêu Sơn cũng hiểu rằng sau lần gặp lại ở Cối Kê, Trần Tinh đã nỗ lực xin lỗi nó, giải thích suy nghĩ của mình mặc cho Tiêu Sơn hiểu như không hiểu. Từ dạo ấy Tiêu Sơn đã nhận ra tình cảm thân thiết nhưng xa cách của Trần Tinh, biết Trần Tinh đang giục nó trưởng thành, mong một ngày nào đó nó có thể tự lập.

Trần Tinh ngơ ngác, toan bảo ngươi đừng giành làm mẹ nuôi Tiêu Sơn, Tạ Đạo Uẩn đã bật thốt khiến cả hai trở nên lúng túng.

“Ta không có ý gì!” Tạ Đạo Uẩn nói, “Ta muốn bái y làm sư phụ!”

“Ồ ồ.” Trần Tinh lau mồ hôi lạnh, gật đầu lia lịa, vung tay lên, “Ta hoàn toàn không phản đối, nó đồng ý không?”

Trần Tinh thấy Tiêu Sơn cũng thích Tạ Đạo Uẩn, Tạ Đạo Uẩn lại muốn tìm sư phụ học võ, mà nghĩ cũng phải, Tạ Đạo Uẩn học không ít võ công, Tạ gia không cho phép nàng vũ đao lộng thương, chỉ có Tạ An là cởi mở trong chuyện này. Hạng Thuật không rảnh dạy nàng, Phùng Thiên Quân thì không tiện đánh nhau với khuê mật của hôn thê, nên Tạ Đạo Uẩn chỉ đành tìm Tiêu Sơn.

Tạ Đạo Uẩn nói: “Tiêu sư phụ nói, y muốn thương lượng với ngươi, hiểu chứ?”

Trần Tinh gật đầu, lúc này Hạng Thuật cố tình đi chậm lại nghe hai người nói chuyện, Tạ Đạo Uẩn liền im bặt tiến lên.

“Các ngươi đi trước đi, chờ ta trên đó,” Trần Tinh dựa vào thân cây, “ta nghỉ một lát.”

“Đã bảo đừng theo ta rồi.” Hạng Thuật mất kiên nhẫn.

Trần Tinh bệnh nặng mới khỏi, vốn đã suy yếu, tâm mạch còn bị thương nên leo núi khiến cậu thở không ra hơi. Mọi người nhìn Trần Tinh, Tiêu Sơn muốn nói lại thôi, Phùng Thiên Quân khều Tiêu Sơn kêu nó đi trước, nói: “Vậy ta với Tiêu Sơn đi trước dò đường.”

Trần Tinh lau mồ hôi gượng cười, Hạng Thuật đợi một lúc thì bảo: “Thôi thôi, để ta cõng ngươi.”

“Không cần,” Trần Tinh vội nói, “ta được mà… sao Tạ sư huynh khỏe thế không biết.”

Hạng Thuật không ép Trần Tinh, không lâu sau mọi người đều đi trước, chỉ còn Hạng Thuật đi cùng Trần Tinh, thỉnh thoảng Trần Tinh trượt chân, mây mù lượn lờ trên núi, mưa phùn nối tiếp từng đợt, ngoại bào hai người chẳng mấy chốc đã ẩm ướt.

Trần Tinh nói: “Ta nhớ lúc dẫn ta lên Tạp La Sát huynh cũng mất kiên nhẫn, không đợi được ư?”

Hạng Thuật hít sâu, định trách cứ Trần Tinh, Trần Tinh lại buồn phiền: “Được rồi, ta… ta nên về Kiến Khang thôi, không kéo chân các ngươi nữa. Ta biết huynh sắp giận.”

Dứt lời Trần Tinh thở dài, lầm bầm: “Hôm nay ra ngoài ta cứ nơm nớp lo sợ, sợ mình bất cẩn làm huynh giận. Xin lỗi, ta về đây.”

Kể từ khi Trần Tinh nhận ra mình hơi thích… không, phải rất thích Hạng Thuật mới đúng, cậu luôn không kiềm được mà lý giải mọi thái độ của hắn với mình, cũng không dám đùa cợt, trêu chọc hắn lộ liễu nữa. Dường như Hạng Thuật cũng nhận ra sự thận trọng của Trần Tinh khi hai người ở chung, song không hiểu vì sao hắn thỉnh thoảng sẽ tức giận không kiểm soát được, hễ khi hắn muốn khống chế Trần Tinh, Trần Tinh lại bày ra cái kiểu chẳng sao và bất hợp tác, cảm giác bực bội ấy không ngừng chất chồng trong lòng Hạng Thuật, để rồi cuối cùng hắn sẽ tìm cớ dạy dỗ Trần Tinh.

Lần này Hạng Thuật không đáp, song vẫn nắm tay Trần Tinh, dẫn cậu chầm chậm lên núi.

Mưa phùn bay lất phất, tim Trần Tinh đập loạn xạ, cậu theo sau Hạng Thuật, vô thức cử động ngón tay, Hạng Thuật nắm chặt tay cậu, siết vào lòng bàn tay không một chút do dự.

Trần Tinh giương mắt nhìn gò má Hạng Thuật, phát hiện mình trước giờ không thực sự hiểu hắn, luôn cảm thấy có đôi lúc hắn rất dễ nổi giận, cũng có khi dịu dàng đến lạ, dịu dàng đến nỗi thậm chí không giống hắn.

Nhưng bất kể ra sao, Trần Tinh cảm thấy mình là người hiểu hắn nhất giữa cõi đời này, dù sao thì mọi việc đều cần có so sánh mà ra.

Hạng Thuật nhìn Trần Tinh, dường như muốn giải thích, Trần Tinh liền lắc tay hắn, ý là không có chuyện gì.

Cuối cùng Hạng Thuật nhận thua, chủ động nói: “Đôi khi ta sẽ cảm thấy khó chịu vô cớ, có phải lệ khí không?”

“Lệ khí?” Trần Tinh buồn cười.

Hạng Thuật thản nhiên đáp: “Trong lòng nghẹn một sức mạnh không thể không chế, luôn tìm lối ra, muốn phát tiết ra ngoài.” Nói đoạn, Hạng Thuật dường như nghĩ đến rất nhiều chuyện, lại nói: “Nhiều lúc ta cũng muốn nói chuyện đàng hoàng, nhưng không biết tại sao, gặp ngươi cứ luôn mất kiên nhẫn… Mà thôi.”

Trần Tinh thầm nghĩ, không chỉ riêng ta đâu, huynh cũng mất kiên nhẫn với mọi người, thậm chí còn chẳng thèm nói chuyện, tính ra huynh rất tốt với ta.

Có lẽ đây cũng là một trong những lý do giúp võ công của Hạng Thuật cao cường, Trần Tinh luôn cảm thấy võ công của hắn khá điên cuồng, mạnh mẽ tràn trề không kiểm soát được, cũng có thể liên quan đến sự kiềm chế trong lòng hắn. Hầu hết thời gian Hạng Thuật rất tỉnh táo và lý trí, tỉnh táo đến mức Trần Tinh thậm chí hơi ngạc nhiên. Nhưng khi cả hai ở một mình, Hạng Thuật sẽ vô tình bộc lộ tính cáu kỉnh của mình, làm Trần Tinh lúc nào cũng phải thận trọng vì sợ mình nói sai.

“Ta muốn ngươi tới,” Hạng Thuật nói đơn giản, “phải, ta muốn đi cùng ngươi.”

Trần Tinh mỉm cười lắng nghe, mây mù trong lòng bỗng chốc hóa hư không, nụ cười ngập tràn hạnh phúc của thiếu niên, song cậu chỉ thốt được rằng: “Ồ, ừm.”

Hạng Thuật nói: “Phong cảnh phía Nam đẹp thật, đi thôi.”

Tâm trạng Trần Tinh trở nên tươi sáng hơn, Hạng Thuật buông tay để cậu tự đi, khi đến một góc sơn đạo, hắn ngoảnh đầu nhìn cậu bằng ánh mắt phức tạp.

“Sau khi vạn pháp phục sinh,” Hạng Thuật đổi đề tài, “ngươi có kế hoạch gì không?”

Trần Tinh hơi ngạc nhiên khi được hỏi, không biết Hạng Thuật nghĩ đến điều gì, cậu đáp: “Tìm một nơi để sống ở Kiến Khang? Sinh sống thôi.”

Vượt qua chân núi, mây mù tan biến, hai người đến vách núi cao, sóng vai hướng về Hồng Hồ dưới chân núi Nam Bình.

“Không định du ngoạn khắp non sông biển hồ Thần Châu ư? Đổi ý rồi à?”

Trần Tinh nhận ra, có lẽ vì hôm nay đến núi Nam Bình nên Hạng Thuật đột nhiên cảm nhận được điều gì đó, rồi nhớ lại những gì mình từng nói trên thuyền.

“Quên mất,” Trần Tinh cười đáp, “phải ha, huynh nhắc ta mới nhớ.”

Trần Tinh thi thoảng sẽ đếm thời gian, còn hai năm nữa, con đường tương lai khó khăn hơn cậu dự tính nhiều, và cũng mất nhiều thời gian hơn, thậm chí cậu không rảnh để suy nghĩ chuyện khác, giải quyết được Thi Hợi đã cảm tạ trời đất lắm rồi, phỏng chừng lúc ấy chẳng còn thì giờ du sơn ngoạn thủy, chi bằng tìm một nơi thanh tĩnh sống qua thời gian, nên khi được hỏi, cậu đã bật thốt trong vô thức.

Song câu trả lời bất hợp lý ấy khiến Hạng Thuật hoài nghi ngay, hắn nhìn Trần Tinh chăm chú. Trần Tinh chột dạ, mất tự nhiên đảo mắt, hỏi ngược lại: “Huynh thì sao? Có định về phương Bắc không?”

Hạng Thuật đứng trước vách núi chót vót, hờ hững đáp: “Muốn đi đường Vạn Lí, ngươi đi nổi không?”

Trần Tinh mỉm cười: “Cho nên? Huynh bằng lòng cùng ta à? Ta sợ lại bị huynh mắng.”

Mây mù lại nhẹ nhàng bao phủ vách núi cao, Hạng Thuật nói trong màn sương: “Được chứ.” Rồi lập tức xoay người lên đỉnh núi. Trần Tinh ngạc nhiên, mình vừa nghe gì cơ?

“Này?” Trần Tinh nói, “Huynh vừa nói gì? Hạng Thuật, chờ ta với!”

Trần Tinh vội xoay người, suýt nữa bước hụt, Hạng Thuật đã lường trước, không cần nhìn đã nắm lấy tay Trần Tinh. Trần Tinh toát mồ hôi lạnh, suýt nữa là ngã xuống rồi, đường khá dốc, trượt một phát chỉ có nước lăn xuống ngay.

Hạng Thuật dòm Trần Tinh, nói: “Không đi với ngươi, sợ ngươi còn chẳng vượt nổi sông Trường Giang.”

Trần Tinh ngượng ngùng mỉm cười.

Đến mô đất cao nằm ngay hông núi Nam Bình, đàn thất tinh nằm trên đài cao giữa núi, hiển thị toàn cảnh, mặt trời hắt nắng, Tiêu Sơn đang cùng Tạ Đạo Uẩn đút sóc ăn dưới gốc cây, Phùng Thiên Quân nắm tay Cố Thanh đứng xem.

Đàn thất tinh từng là đàn Gia Cát Lượng mượn gió Đông, nhằm tưởng nhớ trận Xích Bích oanh liệt có một không hai, người Tấn đã vận chuyển gạch đá sửa lại tế đàn. Đến thời y quan Nam độ đã còn rất ít người đến đây.

Tạ An cầm quạt gấp, đứng cạnh đàn thất tinh, trò chuyện với Phùng Thiên Quân: “Năm nay ta đã nhắc bệ hạ mấy lần, mong ngài có thể đến đây một chuyến.”

Phùng Thiên Quân: “Bắt đầu trọc kia leo núi chắc hắn tắt thở mất.”

Tạ An cười: “Nếu thu hoạch được chút ít vẫn đáng giá mà.”

Hạng Thuật vừa leo lên nghe đúng câu này, tự nhiên hiểu ý Tạ An, y muốn tạo niềm tin cho Tư Mã Diệu và chúng thần triều Tấn, bèn bắt chuyện và giải thích với Phùng Thiên Quân: “Chiến dịch lấy ít thắng nhiều xưa nay chỉ có bốn. Cự Lộc, Quan Độ, Xích Bích và Di Lăng. Đây là một trong số đó.”

Trong trận Cự Lộc, Hạng Vũ liều chết đến cùng khiến quân Tần đại bại. Trong trận Quan Độ, Tào Tháo với hai vạn binh mã đã đánh tơi bời ba mươi vạn quân của Viên Thiệu. Trận Xích Bích càng khỏi nói, cũng là trận đại chiến sau cùng thời Tam Quốc, trận còn lại là Lục Tốn hỏa thiêu liên doanh của quân Thục. Bốn trận chiến này trong lịch sử đều lấy ít thắng nhiều, có thể gọi là đỉnh cao của chủ soái, bốn thống soái Hạng Vũ, Tào Tháo, Chu Du, Lục Tốn cũng thành danh, lưu danh thiên cổ qua các trận chiến này.

“Ta nhớ Giang Đông Bá Vương Hạng Vũ hình như là tổ tiên của hộ pháp Võ Thần.” Tạ An cười nói.

Hạng Thuật không đáp, nhìn đàn thất tinh, rồi lần theo di tích đàn thất tinh nhìn sang vách đá trước núi. Trần Tinh lấy làm ngạc nhiên khi Hạng Thuật biết nhiều về lịch sử người Hán, chắc hắn từng đọc lúc học binh pháp.

“Trong bốn trận chiến,” Hạng Thuật nói, “ba trong số đó diễn ra ở Giang Đông. Binh lính tham chiến đều là đệ tử của Giang Đông.”

“Đúng vậy,” Tạ An gật đầu, “dù là may mắn hay tài năng, xưa nay Giang Đông chưa bao giờ khuất phục. Võ Thần, ngươi hẳn cũng biết, ngoài Tạ An Thạch ta đây, văn võ cả triều chỉ có ngươi dám nói ‘Không phải không đánh được” trước mặt bệ hạ?”

Trần Tinh nghe thế mới biết Tạ An đang chịu áp lực gì, mà cũng dễ hiểu thôi, bên Phù Kiên có tới năm mươi vạn quân, đệ tử Giang Đông lại chưa được bảy vạn, triều Tấn nhất định cảm thấy Tạ An điên rồi. Cho dù kỳ tích Xích Bích tái hiện vẫn không ảnh hưởng đến Phù Kiên, nếu tiến công xuôi Nam từ Phì Thủy, không thể lợi dụng thiên thời địa lợi, làm sao có thể đánh bại kẻ địch?

Hạng Thuật nói: “Phàm là đại chiến sẽ lưu lại không ít điển cố, để người Hán các ngươi có dịp kể lại. Tạ An, chi bằng ngươi chuẩn bị trước, biết đâu có thể lưu lại mấy câu trong sách sau trận Phì Thủy.”

Tạ An mỉm cười: “Võ Thần, ngươi có hứng…”

“Không hứng,” Hạng Thuật nói, “ta sẽ không dẫn binh đánh tộc nhân của ta, cùng lắm không giúp bên nào.”

Tạ An cốt chờ câu này của hắn, bèn nói ngay: “Vậy thì cảm tạ, hộ pháp Võ Thần.” Sau đó cũng chắp tay với Trần Tinh.

Trần Tinh sao lại không biết câu nói ấy của Hạng Thuật mang ý nghĩa gì.

Mặc dù Hạng Thuật có huyết thống người Hán, song vẫn lớn lên ở Sắc Lặc Xuyên, chấp nhận thân phận mình cũng là người Thiết Lặc, nếu hai tộc khai chiến, Đại Thiền Vu tiền nhiệm nào có đạo lý mặc kệ đứng nhìn?

Sở dĩ hắn hứa hẹn cũng vì Trần Tinh cả thôi.

“Nghỉ đủ chưa? Đứng lên thử.” Hạng Thuật hỏi thăm.

Trần Tinh đứng dậy, dạo quanh đàn thất tinh, đứng giữa đàn, tự hỏi từ lúc Khổng Minh mượn gió Đông đến nay đã được một trăm bảy mươi ba năm, rêu xanh đã bám đầy đài, quá khứ không in lại vết tích.

Đàn thất tinh hướng mặt về Trường Giang, vọng về Hồng Hà cách một dòng sông, ba ngọn núi uốn lượn phía sau như rồng, Trường Giang như một thanh gươm ngàn dặm, nếu Hồng Hồ là một pháp trận lớn, thì quả là nơi linh khí thiên địa hội tụ.

“Nơi này đúng là động thiên phúc địa tuyệt vời,” Trần Tinh nói, “còn là bụng của Thần Châu, nếu Trương Lưu dùng Định Hải châu thi pháp ở đàn thất tinh, không chừng có thể hấp thu linh khí thiên địa.”

Gió núi thổi tung áo bào trắng tinh của Trần Tinh, cậu nhắm mắt, hai tay thi quyết, đứng giữa đàn thất tinh mô phỏng trạng thái thi pháp, dù là Khổng Minh hay Trương Lưu, nếu có linh khí thiên địa, chắc chắn sẽ cuồn cuộn hội tụ về tay cậu.

Hạng Thuật đứng sau Trần Tinh, quan sát cậu từ góc độ này.

Trần Tinh mở mắt, không thấy Hạng Thuật, bèn quay đầu hỏi: “Thế nào?”

“Cho nên lúc trước Trương Lưu thực sự thi pháp ở đây.” Phùng Thiên Quân nói.

“Phải,” Trần Tinh nói, “rất có khả năng.”

Hạng Thuật nói: “Quá trình thi pháp có để lại vết tích gì không?”

“Dù có cũng không tìm được,” Trần Tinh nói, “đã qua ba trăm năm rồi.”

Hạng Thuật: “Thế vết tích Khổng Minh mượn gió Đông thì sao?”

Trần Tinh: “Cũng hơn một trăm bảy mươi năm rồi, làm sao… chờ đã.”

Trần Tinh đột nhiên nảy sinh nghi hoặc, Hạng Thuật thốt ra nghi vấn đó giúp cậu.

“Trương Lưu đã dùng Định Hải châu thu hết linh khí thiên địa, khiến Vạn Pháp Quy Tịch,” Hạng Thuật nói, “pháp thuật thế gian mất hết, làm sao một trăm ba mươi năm sau Khổng Minh có thể mượn gió Đông?”

Rõ ràng bất hợp lý, Trần Tinh lập tức bối rối: “Đúng vậy, thời Tam Quốc đã sớm Vạn Pháp Quy Tịch rồi.”

Mọi người hai mặt nhìn nhau, Tạ an nói: “Có lẽ mượn gió Đông chỉ là một phương pháp? Gia Cát Lượng thông thạo thiên văn địa lý, tự nhiên cũng biết khí tượng biến đổi, lừa gạt Tôn Ngô, cũng có lý.”

Đây là cách giải thích duy nhất, song Trần Tinh vẫn cảm thấy không đúng: “Chuyện quan trọng thế sao giờ huynh mới nói?”

Hạng Thuật:  “Lúc đó ta hỏi, ngươi bảo ‘Không quan trọng’.”

“Liệu Định Hải châu có ở Xích Bích không?” Phùng Thiên Quân nói, “Nếu sau khi Trương Lưu thu hết linh khí thiên địa liền bị Thi Hợi phục kích, trong lúc chạy trốn đã giấu Định Hải châu ở gần đó? Nếu thứ đó còn trong núi, ắt sẽ tản ra chút linh khí, vì thế hơn một trăm năm sau, Khổng Minh tìm thấy nơi này, nhưng không giải thích được tại sao khắp thiên hạ chỉ có thể thi pháp ở núi Nam Bình, nói chung, hắn đã làm thế…”

Tạ An cũng giật mình, có lẽ đây chính là câu trả lời!

Trần Tinh nói: “Chờ đấy, để ta thử!”

Trần Tinh giơ tay, thực hiện một pháp thuật đơn giản, gió núi thổi qua rừng đương bóng hoàng hôn, khiến cậu khó tập trung tinh thần, liên tục run lên vì kích động, nếu thật là thế, có lẽ không cần tốn công thêm nữa, Định Hải châu đang ở rất gần họ rồi!

Đây là lần đầu Cố Thanh và Tạ Đạo Uẩn thấy thầy trừ tà thi pháp, cả hai ngạc nhiên đứng nhìn.

Trần Tinh nâng một tay rồi hạ xuống, lại giơ lên, cố hết sức ổn định cảm xúc để nhớ khẩu quyết.

Hạng Thuật đột nhiên nói: “Ngươi có chắc sau Vạn Pháp Quy Tịch, chỉ Định Hải châu mới có thể phóng thích linh khí?”

“Ngươi đừng nói chuyện với y!” Phùng Thiên Quân và Tạ An đồng thời la lên.

“Để yên cho đệ ấy thi pháp,” Tạ An nói, “lát nữa hẵng hỏi.”

Trần Tinh thử vài lần, sau đó thất vọng nói: “Không có, không thấy dấu vết linh khí lưu động.”

Hạng Thuật rất bình tĩnh, hỏi: “Phải chăng pháp quyết có vấn đề?”

“Ta không biết,” tâm trạng Trần Tinh rối bời, “dầu gì lúc ta học pháp thuật đã không còn linh khí rồi… thôi vậy, trả lời câu hỏi của huynh trước.”

Trần Tinh nghĩ ngợi, nghiêm túc trả lời: “Vạn Pháp Quy Tịch, chỉ còn Tâm Đăng có thể phóng thích pháp lực, cách nói ấy không đúng lắm.”

Hạng Thuật “ừ”, hiển nhiên vẫn luôn cân nhắc vấn đề này, vì sao sau khi linh khí thiên địa biến mất chỉ còn Tâm Đăng phát huy được tác dụng.

“Ngoài Tâm Đăng, thế gian nhất định vẫn còn một phần pháp lực,” Trần Tinh nói, “nhưng rất ít, cực ít, chẳng hạn như Lục Ảnh.”

Trước đây Hạng Thuật, Trần Tinh cùng Tiêu Sơn đều thấy trước khi chết, Lục Ảnh đã phóng ra một luồng sức mạnh nhu hòa, giúp cả Tạp La Sát khôi phục sức sống, sao có thể nói pháp lực mất hết?

Hạng Thuật nói: “Sức mạnh của Lục Ảnh từ đâu ra?”

Lúc này Tiêu Sơn đáp: “Nội đan.”

“Đúng,” Trần Tinh nói, “nội đan của yêu tộc.”

Trước khi Vạn Pháp Quy Tịch, yêu tộc tăng cường tu vi của mình bằng cách hấp thu linh khí thiên địa, phần pháp lực này được cơ thể hấp thu, sau đó lưu trữ trong nội đan, cung cấp sức mạnh cho yêu tộc tồn tại. Trần Tinh đại khái hiểu được chuyện gì đang diễn ra, thứ Định Hải châu hấp thu chỉ là linh khí tự do mênh mông, nó không thể lấy đi linh khí trong nội đan của yêu quái.

Cho nên sau khi linh khí mất hết, các yêu quái dựa vào nội đan của mình để cầm cự một thời gian. Song pháp lực trong nội đan không thể tái sinh, giống như nước trong bình, một khi đã dùng không được bổ sung sẽ không còn nữa.

Lục Ảnh là yêu quái cực mạnh, lại có được long lực của Chúc Âm trước khi Quy Tịch, nên linh khí trong nội đan có thể dùng mấy trăm năm, đến khi chết vẫn còn thừa chút yêu lực.

“Tâm Đăng cũng tương tự thế,” Trần Tinh dứt khoát thú nhận, “Tâm Đăng thiêu đốt hồn phách con người. Mà ba hồn bảy phách có thể từ từ tái sinh, mặc dù rất yếu, nhưng vẫn có thể cung cấp sức mạnh vô tận cho nội đan.”

“Ồ.” Hạng Thuật dựa vào mép vách núi, dường như đang nghĩ về chuyện khác, nói, “Nếu ta tìm được nội đan của yêu quái, là có thể thay Tâm Đăng giúp Bất Động Như Sơn phát huy tác dụng rồi.”

“Dùng yêu lực phát động, theo lý thuyết không phải không được…” Trần Tinh nói, “cũng giống như mượn oán khí, chỉ là năng lượng khác nhau, bản chất của yêu lực cũng là linh khí thiên địa, nhưng Vạn Pháp đã Quy Tịch mấy trăm năm rồi, dù là yêu quái lợi hại cỡ nào đi chăng nữa thì yêu lực trong nội đan cũng cạn, ngay cả phượng hoàng cũng không cầm cự nổi, huynh đừng nghĩ nữa.”

Trần Tinh biết Hạng Thuật đang tìm cách bảo vệ mình, song cậu tình nguyện Hạng Thuật có thể mặc sức chiến đấu, nên Trần Tinh quyết định tìm thời gian thảo luận với hắn sau. Hạng Thuật rất để tâm chuyện này, hy vọng cậu có thể khỏe hơn, nghĩ đến là Trần Tinh lại thấy buồn.

“Không có dòng chảy của pháp lực,” Trần Tinh nói, “chí ít thì hiện tại ta không phát hiện ra.”

Sắc trời dần tối, Phùng Thiên Quân đề nghị: “Hay xuống núi thôi? Mai lại tới điều tra?”

Tạ An đã nhờ quận thú chuẩn bị đâu ra đó, vừa xuống núi là có thể đi thuyền tới quan phủ tá túc: “Đừng nóng vội, coi như đi giải sầu, cũng bận bịu mấy ngày nay rồi, đệ nên nghỉ ngơi đi.”

Tạ An đến đây để điều tra, đồng thời cân nhắc địa hình quanh Xích Bích, nếu Phù Kiên dẫn quân xuôi Nam, thì ven bờ Giang Nam sẽ là tiền tuyến, phía Nam Trường Giang cũng trở thành hậu phương, một khi Phì Thủy thất thế, không chừng phải vừa đánh vừa lui, giữ sức để tìm chiến trường chiến đấu thích hợp hơn.

“Các ngươi xuống trước đi,” Hạng Thuật nói, “đưa y đi nghỉ, ta ở đây một lát.”

Trần Tinh biết Hạng Thuật vẫn chưa bỏ cuộc, cậu bảo: “Ta ở với huynh.”

Mọi người dọc theo sơn đạo trở về, chỉ còn Trần Tinh và Hạng Thuật ở lại.

Ráng đỏ trải rộng vùng trời, muôn vàn tia nắng bay ngang, Hồng Hồ văng vẳng tiếng ca, sóng chiều ánh vàng muôn lối. Hạng Thuật bước đến đàn thất tinh, cúi đầu nhìn tảng đá dưới chân, rồi nhìn lên vách đá.

Trần Tinh lẩm bẩm: “Không biết vì sao, ta luôn cảm thấy chúng ta đã đến đúng chỗ.”

“Có phải ngươi có chuyện gạt ta?” Hạng Thuật không tiếp lời, hỏi ngược lại Trần Tinh.

“Hả?” Trần Tinh ngẩn người, suy nghĩ xoay chuyển, nói, “Đâu… đâu có, sao tự dưng hỏi vậy?”

Hạng Thuật đưa lưng về phía Trần Tinh, đứng trước vách đá bên hông đàn thất tinh, ngẩng đầu quan sát núi đá lởm chởm qua những tia nắng cuối ngày, lại nói: “Lần nào nói đến pháp thuật, sách cổ ngươi cũng luyên thuyên, thế mà không nghĩ cách bảo vệ mình?”

“Chẳng phải đã có huynh rồi sao?” Trần Tinh cười nói.

Hạng Thuật cau mày, Trần Tinh nói tiếp: “Hạng Thuật, huynh rất để tâm đến mạng ta.”

Hạng Thuật không đáp, chợt hỏi: “Còn nhớ lần đầu gặp nhau ở Tương Dương không?”

Trần Tinh bỗng thấy buồn cười, cả hai không ai chịu trực tiếp trả lời đối phương mà cứ vòng tới vòng lui.

“Dĩ nhiên nhớ rồi.” Trần Tinh nói, “Huynh vừa tỉnh lại đã trói ta, huynh nhìn tảng đá kia cả buổi rồi, đẹp lắm à?”

Hạng Thuật đột nhiên lùi ra sau: “Lại đây.”

Trần Tinh: “?”

Hạng Thuật cởi trọng kiếm trên lưng xuống, Trần Tinh cảnh giác, chẳng lẽ có kẻ thù? Thế là cậu khởi động Tâm Đăng, Hạng Thuật nắm tay cậu, nhíu mày: “Ta chỉ kêu ngươi qua xem.”

Dứt lời, Hạng Thuật lùi sang một bên, hai tay cầm trọng kiếm, làm động tác chém lên tảng đá, rồi hỏi cậu: “Giống cái gì?”

Mặt trời dần tắt nắng, Trần Tinh cũng phát hiện, Hạng Thuật đã có kết luận sau một hồi quan sát núi đá: “Đây là… vách đá này bị chém. Ai mà sức lớn thế không biết?”

Hạng Thuật đi đến mép vách đá, nhìn xuống, dưới hẻm núi có một khe nứt mọc um tùm cây cỏ và dây leo, nếu gạt dây leo và rêu xanh đi, đó có thể là vết tích để lại sau một trận chiến.