Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình

Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình - Chương 11: Một trăm vị hiệu trưởng




Phải chi Charlie nhìn ra ngoài cửa sổ thì thể nào nó cũng mục kích được một cảnh tượng ngoạn mục. Bầu trời rợp bóng chim. Chúng yên lặng, nhưng thinh không ngăn vẳng tiếng đập cánh. Từ từ, những nhóm chim nhỏ bắt đầu tách ra khỏi bầy chim lớn. Chúng sà xuống đậu trên những bức trường, trên cây cối, trên hàng rào và trên những toà nhà. Đậu xuống rồi, chúng rúc đầu vào dưới cánh ngủ thiếp đi. Chẳng bao lâu sau chỉ còn mỗi bọn cú là thức.

Bên dưới, trong thành phố, những người tỉnh ngủ bị hút về cửa sổ. Họ được tưởng thưởng bằng một quang cảnh mà họ sẽ không bao giờ quên. Hàng hàng lớp lớp những sinh vật im lặng và nghiêm trang di chuyển qua thành phố. Dẫn đường là ba con mèo có bộ lông sáng rực rỡ, đến nỗi không khí xung quanh chúng sáng loá lên những gam màu dữ dội. Trên mỗi đường phố diễu qua, những con thú lần lượt tìm thấy nhà mình. Chúng phóng qua cửa sổ, chúng bước vào vườn, vào cũi, vào chuồng, và những người chứng kiến đang sửng sốt kia liền trút một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vậy là cuối cùng thành phố không chết.

Tin tức truyền đi thần tốc. Đến giờ nghỉ giải lao đầu tiên thì ngay cả bọn trẻ trong Học viện Bloor cũng đã nghe nói về cuộc trở về vĩ đại. Tiếng cười rộn rã vang lên trong các căn-tin và các lớp học; nụ cười mỉm đã xuất hiện trên gương mặt của những đứa trước đó từng tuyên bố rằng mình sẽ không bao giờ mỉm cười nữa. Charlie thấy nhẹ cả người, mặc dù vài đứa học chung lớp vẫn nhìn nó với con mắt nghi ngờ.

Vấn đề này vừa được giải quyết xong, Charlie đã lại phải đối mặt ngay với một vấn đề khác. Cấm túc. Nó tha thiết muốn biết xem ngoại Maisis đã tan chưa, và nó cũng cảm thâấ mình nhất thiết phải về nhà để canh chừng mẹ.

Vào giờ ăn trưa, Charlie thấy Billy trong căn-tin, đang xơi một món đặc sản của bà bếp trưởng: thịt nhím nấu khoai tây.

“Đây không phải là thịt nhím thật,” Billy nghiêm trang. “Chẳng qua món này có những miếng giòn giòn rất ngon.”

Trong khi múc đồ ăn cho Charlie, bà bếp trưởng nhỏ nhẹ bảo, “Ta nghe nói những con thú đã trở về.”

Charlie gật đầu, “Những con mèo lửa đã đưa chúng về. Nhưng con bị cấm túc vào cuối tuần này, cho nên...”

“Cái gì?” Bà bếp trưởng hạ cái muôi xuống. “Sao lại thế được.” Trong bà ngạc nhiên ghê lắm.

Charlie toan hỏi tại sao, thì đằng sau nó, Gabiel kêu oang oác. “Tôi đói sắp chết rồi này. Đi thôi Charlie.”

Charlie cầm đĩa thịt nhím của nó lại bàn của Billy. Đôi ba phút sau có thêm Fidelio cà Gabriel tới nhập bọn.

“Các anh có biết chuyện gì xảy ra vào cuối tuần này không?” Billy hỏi những đứa kia.

“Anh bị cấm túc,” Charlie đáp.

“Không, em không có ý nói điều đó”. Billy ưỡn khuỳnh vai ra và nói với vẻ rất chi là quan trọng,

“Đó là Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng vào tối thứ Sau, và Đại Dạ Vũ vào thứ Bảy. Em nghe thấy tiến sĩ Bloor nhắc nhở bà giám thị như vậy đấy. Ông ấy sùng máu vì chuyện bà kia phạt cấm túc anh, Charlie à, vì ông ấy không muốn có bất kỳ đứa trẻ nào ở trong toàn nhà cả. Nhưng bà giám thị bảo rút lại lệnh phạt cấm túc là đi ngược với những nguyên tắc của bà ta. Tiến sĩ Bloor đùng đùng tức khí bỏ đi. Ông ấy bảo bà giám thị phải bắt anh tránh xa ra. Em nghĩ ông ta ám chỉ cả em nữa, bởi vì em sẽ ở đây nếu anh ở đây, phải không Charlie?”

Charlie cảm thấy hết hơi khi Billy cuối cùng đã ngừng nói.

Gabriel bảo, “Billy, tôi chưa bao giờ nghe em nói quá nhiều trong một hơi như vậy.”

Fidelio hỏi, “Thế Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng và Đại Dạ Vũ là gì?”

“À,” Billy lại bắt đầu. “Em đã tìm hiểu được đôi chút từ Manfred rồi.”

“Từ Manfred!” Bọn kia sửng sốt la lên.

Anh ta vốn rất thích được coi là quan trọng mà, vì vậy em mới nghĩ anh ta sẽ rất khoái được nói cho em biết. “Billy lại tiếp”, “Mà đúng như vậy thật. Anh ta bảo là cứ mười năm một lần lại diễn ra một cuộc tụ hội. Hiệu trưởng từ một trăm học viện khác đên đây để trao đổi thông tin về các học sinh của họ và về đủ mọi thứ.”

“Những học viện nào khác?” Charlie nói.

“Tất cả những học viện có trẻ con được ban phép thuật đến học,” Billy nói.

“Còn những học viện khác sao?” Charlie ngạc nhiên.

“Dĩ nhiên, có sao không!” Gabriel trầm ngâm. “Em cứ nghĩ đi, phải có đến hàng trăm những đứa trẻ như tụi mình ở khắp mọi nơi trên thế giới ấy chứ. Ý tôi là Vua Đỏ có mười người con, và nếu như tất cả họ đều có con cái, mà đã cách đây chín trăm năm thì...”

“Chao!” Miệng Charlie rớt xệ xuống. “Sao à em khờ quá?! Tất cả bọn chúng không thể dồn hết vào Học viện Bloor, đúng không? Không thể nào như thế được nếu họ sống ở Trung Quốc, hay châu Phi.”

“Hay thậm chí ở Scốt-lên, hay Ai-len,” Fidelio nói.

“Phùù! Thế mà em chả bao giờ nghĩ ra,” Charlie lắc đầu, thấy kỳ diệu quá chừng.

Chúng cắm đầu vào món thịt nhím, mỗi đứa đeo đuổi một ý nghĩ của riêng mình về những học viên khác, những đứa trẻ khác và những vị hiệu trưởng khác.

“Bằng mọi giá anh sẽ vào Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng đó” Charlie nói. “Có rất nhiều thứ anh muốn tìm hiểu.”

“Em cũng vậy,” Billy đồng tình.

Charlie nuốt nghiến miếng thịt nhím cuối cùng của mình và mỉm cười. Rốt cuộc, cuối tuần này cũng không đến nỗi tệ. Có lẽ mẹ nó đã tìm thấy cỏ roi ngựa, và khi về đến nhà thì ngoại Maisie đã trở lại là bà rồi.

Đám học trò của Học viện Bloor ra về mà không mảy may nghi ngờ rằng sắp có một sự kiện trọng đại diễn ra trong trường mình. Đến thứ Sáu, trần đại tiền sảnh đã sáng trưng với hàng ngàn cây đèn lồng. Gươm, cung, nỏ, mã tấu, đại đao, thương và nhiều lại vũ khí trông ấn tượng khác được lôi ra khỏi tủ, rương, hòm; rồi được đánh bóng đến độ sáng loá cả lên, và đem treo trên những bức tường ốp gỗ sồi, khiến người ta trông thấy phải nín thở vì khiếp sợ và thán phục. Một đội quân lao công đã lau chùi từng viên đá lát sàng láng bóng lên, và bọn trẻ nhận lệnh là chỉ được bước đi ở những mép tường mà thôi.

Trong sảnh tối, ánh sáng có hơi lu hơn một chút, mặc dùg có nhiều cái giá bằng đồng thau đã được gắn vào tường. Phải chăng chúng dùng để đỡ những cây đuốc thắp sáng? Và những vị khách quan trọng đó sẽ được phục vụ trong ánh lửa?

Thậm chí cả những cô phục vụ bữa tối tính vốn xởi lởi nhất cũng trở nên cáu bẳn. Khối công việc nặng nhọc phát sinh đang vắt kiện sức họ. Suôt cả ngày, giờ nào cũng thấy họ tất tả ngược xuôi trong các hành lang, bưng những khay đồ bằng bạc mà bao năm ròng chưa hề thấy ánh sáng ban ngày.

Hết dĩa tiệc tùng lớn bằng sứ, lại ly cốc bằng pha lê, rồi đến đĩa ăn bằng vàng..., tất cả đều được moi ra khỏi buồng chưa đồ, rồi mang tới khu nhà bếp để cọ rửa cho sáng.

Những bóng đèn thần tiên treo dọc suốt hành lang tối tăm thông từ tiền sảnh tới căn – tin và phòng ăn tối, và Charlie nhận thấy một số bức chân dung được trang hoàng bằng ruy – băng vàng óng. Tuy nhiên, không phải bức nào cũng thế. Có lẽ chỉ những nhân vật có mối liên hệ trực tiếp với những vị khác danh dự mà thôi.

Charlie và Billy ngồi trong phòng ngủ chung nhìn bọn khác đóng gói ra về. Lòng Charlie dâng trào một cảm giác kiêu hãnh kỳ lạ. Tuy đã cố tỏ ra rầu rĩ cho hợp cảnh khi Bragger Braine và Rupe Small bước ra cửa, với túi xách của chúng lẳng trên vai một cách trễ nải, nhưng nó vẫn không ngăn được một nụ cười nhếch lên nơi khéo miệng.

“Mày cười cái gì?” Bragger gườm gườm.

“Giỏ của Rupe nặng đến nỗi trông nó như đang chìm kìa. Mày còn bao nhiêu hũ Cánh Hoa Thơm ở trong đó vậy, Rupe?

Một vài đứa ré lên cười khúc khích, còn Rupe thì hét, “Câm ngay!”.

“Chúc một cuối tuần không ra gì, nha, Charlie Bone”, Bragger nói, lặc lè đi ra theo sau Rupe.

Gabriel và Fidelio là những đứa cuối cùng đi khỏi. Chúng chúc Charlie may mắn và hứa sẽ họp mặt vào Chủ nhật.

“Tôi sẽ mang thêm chuột”, Gabriel nói, vẫy tay một cái lần cuối.

Không lâu sau, khi đứa học trò cuối cùng rời khỏi trường, bà Lucretia Yewbeam ngó vào phòng ngủ chung và báo với Charlie và Billy rằng chúng sẽ ăn tối sớm. “Ta muốn cả hai bọn bay trở lại đây trước sáu giờ”, bà ta nẹt. “Đèn tắt lúc bảy giờ và không đứa nào trong hai đứa được rời khỏi phòng nay cho tới bữa sáng mai.”

“Đèn tắt lúc bảy giờ!” Charlie phàn nàn. “Tại sao vậy?”

“Chứ mày nghĩ tại sao? Đó là trừng phạt. Nào, giờ thì đi rửa ráy đi. Bữa tối trong căn – tin lúc năm giờ rưỡi mà”. Với nụ cười rộng chành bành, bà giám thị lướt ra.

Lúc hai đứa đi tìm bà bếp trưởng, chúng thấy bà trong nhà bếp, đang bận túi bụi. Những người phụ việc bấn loạn lượn mòng mòng xung quanh bà, trong khi bà chạy đôn chạy đáo từ dàn bếp lò khổng lồ tới phòng trữ đông rồi lại trở về, miệng lẩm ba lẩm bẩm, “Một trăm món này, một trăm món kia, súp rùa, bánh pate bồ câu, thịt bò kiểu này, thịt bò kiểu kia. Không thịt cho ông đó, không kem cho bà nọ...” Không ngẩng mặt lên nhìn, bà nói luôn, “Chào các cậu. Chỉ có đậu nướng rải lên bánh mì cho các cậu thôi, ta e là vậy. Đây.”

Bà bếp trưởng chia một nồi đậu vào hai dĩa bánh mì nướng phết bơ, rồi đặt chúng lên một cái khay cùng hai tô sữa trứng.

“Khi nào thì bữa tối bắt đầu ạ?” Charlie hỏi.

“Bảy rưỡi, mà ta thì không bao giờ chuẩn bị kịp.”

Một đàn người phụ việc phát rồ chạy ập tới chỗ bà bếp trưởng, thế là bà vội xua bọn con trai đi, “Xin lỗi các con, ta phải tiếp tục đây.”

Charlie cầm cái khay đi vào căn – tin và đặt lên chiếc bàn xa quầy nhất. Tiếng ồn ào từ bếp vọng ra ầm ĩ đến độ bọn trẻ không thể nghe được suy nghĩ của chính mình. Chúng nuốt vội bữa tối và rút khỏi căn – tin càng nhanh càng tốt.

Trở lại phòng ngủ chung, chúng thay pyjama vào và rón rén đi ra chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh. Nằm ép dẹp bụng xuống, chúng hé mắt dòm qua những con tiện chắn lan can nhìn xuống tiền sảnh rộng lớn. Chúng gần như không còn nhận ra tiền sảnh nữa.

Hàng ngàn ngọn đèn lồng thắp sáng trưng, một biển người di chuyển chầm chậm quanh tiền sảnh. Hầu hết khách khứa đều diện đồ dạ và đồ đại lễ, nhưng cũng có một số ông đội khăn xếp, số khác lại mặc áo chùng dát vàng, và những người khác nữa thì khoác áo gió đủ sắc cầu vồng. Co cả vài người mặc áo thụng trắng, và một người đàn ông ngập từ đầu đến chân trong vải lụa màu tía, cùng với một bao kiếm nạm ngọc đeo ở thắt lưng. Đám phụ nữ xúng xính sari Ấn Độ truyện trò với các bà các cô bận kimono Nhật Bản; người người trong các kiểu trang phục truyền thống sặc sỡ nhiệt tình nói chuyện mà chồm người tới trước, cố hiểu được ngôn ngữ của nhau.

Lão Ezekiel, thu lu trong bộ áo khác nhung đen và nón ôm sát đầu màu đỏ, đẩy xe lăn xuyên thẳng qua đám đông; lão lăn tới đâu, từ phía sau ghế lão ngồi những viên pháo tép rít lên và nổ lạch tạch liên hồi tới đó, khiến cho một số vị khách phải nhảy bắn sang một bên, mút mát cánh tay và khớp ngón tay bị cháy của mình.

Các cô bồi bàn mặc váy ngắn màu đen, đội mũ lưỡi trai và đeo tạp dề trắng luồn lách qua đám đông, bưng bê những đĩa lớn đựng các món ăn vặt, với mỗi miếng vừa vặn bỏ miệng ăn, trong khi những anh bồi mặc gi – lê đỏ và vàng kim cẩn thận giữ thăng bằng những khay sâm banh sủi bọt.

Ở ngay chân cầu thang, một nhạc công đàn hạp váy hồng xòe rủ lướt tay qua những sợi dây của đàn hạp khổng lồ màu vàng óng. Tiếng đàn du dương vút lên rồi rơi xuống giữa những tiếng truyện trò râm râm ran ran.

Billy ghé đầu sát vào đầu Charlie và thì thầm, “Ở đây toàn những người nguy hiểm.”

“Em đang nói về ai cơ?” Charlie thì thào lại.

“Về Vua Đỏ. Những người con tốt của ngài đã vĩnh viễn rời khỏi lâu đài của cha họ. Một số thậm chí còn rời đất nước. Nên những người dưới kia kìa, ừm, có lẽ là những người từ nước ngoài về ấy, là cháu chắt của những người con tốt.”

Charlie chưa nghĩ tới như thế, nhưng giờ nó quan sát những gương mặt bên dưới chăm chú hơn. Có phải vì nó tưởng tượng không, hay thực sự hầu hết những người mặc đồ dạ tiệc đều mang vẻ mặt canh chừng? Và rõ ràng những người đó trông dữ tợn và khắc khổ hơn những người kia. Trong khi đó, đa phần khách nước ngoài trông lại thân thiện và thư thái. Họ hay mỉm cười hơn và thậm chí có lúc còn cười phá lên.

Charlie bỗng sực nhớ, liền nhìn đồng hồ đeo tay. Bảy giờ kém năm phút. Nó hích tay Billy. “Năm phút nữa bà giám thị sẽ ở trong phòng ngủ chung. Bà ấy vừa đi khỏi là tụi mình tức tốc lẻn xuống sảnh ăn tối, coi xem có thể núp ở đâu được trước khi bữa tiệc bắt đầu nhé.”

Chúng bò ra khỏi chiếu nghỉ và chạy như bay về lại phòng ngủ chung. Đúng một phút sau khi chúng nhảy tọt lên giường, cánh cửa bật mở và bà giám thị ngó vào. Bà ta trông mới lố lăng làm sao với váy dài dạ hội màu ngọc lục bảo, đôi bông tai xanh lá cây dài dễ phải chạm đến vai. Mái tóc xám trắng được búi thành cục to trên đỉnh đầu và điểm tô thêm bằng một cái nơ con bướm xanh lá cây to bành. “Tắt đèn,” bà ta nói lạnh lùng. “Trong trường hợp đứa nào cả gan dám nghĩ đến việc đi lăng quăng thì nhớ, hình phạt tiếp theo sẽ còn tệ hơn thế này nhiều”.

“Vâng, thưa bà giám thị”, Charlie đáp một cách hiền từ. Nó nghĩ vơ quàng của Billy vào hình phạt của nó là không công bằng, tuy nhiên nó quyết định không trả treo làm gì.

Bà giám thị tắt đèn, nhưng trước khi đóng cửa lại, bà ta nói, “Mày không khen bà cô mày đẹp lấy một tiếng sao, hả?”

“Không, thưa bà cô”, Charlie nói. “Ý cháu là...”

Bà ta đóng sầm cánh cửa.

Charlie lắng nghe tiếng bước chân bà ta xa dần. “Bà ấy sẽ không trở lại đâu”, nó nói. “

Coi bộ không có vẻ gì là sẽ quay lại.”

“Em cá là bà ta đi chài một ông hiệu trưởng đẹp trai giàu có nào đó”, Billy cười khi khì.

Chúng chờ thêm năm phút nữa thì xỏ vội đôi dép lê, len lén đi tới cầu thang phía sau và xuống lầu trệt. Giờ hai đứa đã ở hành lang, ngang qua những căn – tin và xuống phòng dạ tiệc ở dưới lòng đất. Nép mình vào những mảng tối, chúng đi gần tới phòng dạ tiệc, bỗng một cô hầu bàn trở ra từ nhà bếp xanh lá cây. Cô ta kéo chiếc xe đẩy chất đầy nhóc những đĩa đồ ăn.

Bọn nhóc rụt vội vào tường nhưng cô hầu đã trông thấy chúng. “Chào các em”, cô nói, nghía bộ đồ ngủ của chúng. “Các em đang làm gì ở đây thế?”

“Tụi em xuống xin chút nước uống ạ”, Charlie mau miệng. “Tụi em khát đến nỗi định uống vòi nước trên lầu nhưng vì đường ống bị gỉ sét... hay làm sao đó”.

“Tội không. Vào đi và tự lấy nước mà uống”, cô hất đầu về phía cánh cửa căn – tin.

“Cảm ơn cô!” Charlie trao cho cô hầu một nụ cười tuyệt vời nhất. Nhưng không cách chi nó dám vào nhà bếp xanh lá cây, nơi bà Weedon đang trấn giữ. Bà ta là người nấu bếp bủn xỉn, bần tiện và vô cùng xấu tính, chắc chắn bà sẽ sai chồng ra lôi cổ bọn nhóc về lại phòng ngủ chung.

Cô hầu bàn đẩy chiếc xe đi qua chúng và tới căn – tin xanh da trời. “Lộn món rồi”, cô càu nhàu. “Thế mới rầy rà”.

Ngay đúng lúc cái lưng của cô rẽ ngoặt vào, hai thằng bé phóng vù tới sảnh ăn tối. Chúng sắp lách qua cánh cửa đôi thì Billy hỏi, “Tụi mình trốn đâu bây giờ?”

“Dưới gầm bàn,” Charlie nói.

“Nhưng... họ có thể thấy tụi mình.”

Charlie không muốn nghĩ đến điều đó. Nó mở hí cửa ra chừng một phân và liếc vào trong. Thật may ơi là may. Mọi cái bàn đều phủ khăn trải bàn trắng khổng lồ, rủ xuống chạm mí sàn.

Một cô hầu bàn đang bận rộn sắp xếp ly tách lên cái bàn trên bục cao của tiến sĩ Bloor, nhưng ba dãy bàn kia đã được bày biện xong xuôi. Bên trên mỗi miếng vải lót đĩa bằng nhung đỏ đều đặt một tấm danh thiếp bạc, in một cái tên, và quanh mỗi miếng lót đĩa lại được vây quanh không biết bao nhiêu là dao, nĩa, thìa và ly, đến nỗi Charlie không kịp đếm.

Những giá đuốc rực rỡ bằng đồng thau hắt xuống một màu cam chói loá, đầy nguy hiểm, và từ cửa, Charlie đã có thể cảm thấy hơi nóng từ những ngọn lửa uốn éo toả ra.

Canh đúng khoảnh khắc cái lưng cô hầu bàn vừa khuất, Charlie thì thào, “Đi nào!”

Cúi rạp người xuống, hai đứa nửa bò nửa chạy về phía chiếc bàn chính giữa và chui tuột vào tấm khăn trải bàn. Một mùi khủng khiếp đập vào lỗ mũi Charlie và nó thấy, thật kinh hãi, May Phúc cũng đã chọn đúng cái bàn này để núp.

Đã quá trễ để đổi qua bàn khác. Một cánh cửa bên hông cái bục cao mở ra và hai người bồi bàn xông vào cùng với những chiếc xe đẩy chất đầy đồ ăn nóng nghi ngút.

Dưới gầm bàn May Phúc chạy xổ tới Billy, rên ư ử nhè nhẹ.

“Bảo nó im ngay đi,” Charlie thì thào, “không nó làm tụi mình lộ bây giờ.”

Billy phọt ra vài tiếng gừ gừ nhẹ và May Phúc nằm nghiêng oặt qua một bên, vẫy vẫy cái đuôi trụi lông.

“Gì đó?” Một người hầu bàn xớn xác.

Billy thổi phù vào thẳng tai May Phúc, gần như không thành tiếng, lập tức tiếng quật đuôi im bặt.

“Chắc là chuột,” người kia đáp.

Người đầu tiên cười hí hí, “Vái trời nó gặm mắt cá ai đó đi. Tôi chán ngấy cái công việc này rồi. Phải dậy từ sáu giờ sáng quần quật tới giờ mà công xá thì trả rẻ thối.”

“Bọn chúng là một lũ bủn xỉn,” người bạn anh ta tán thành ngay.

Hai người bồi bàn khua loảng xoảng khi chuyển đồ ăn từ xe đẩy lên bàn, đến nỗi Charlie và Billy không cần giữ kẽ nữa, có thể bò về phía cái bục. Charlie muốn ngồi ở chỗ tốt để nghe được những gì mọi người nói quanh cái bàn chóp bu này.

Thêm hai chiếc xe đẩy nữa được đẩy vào, và chẳng mấy chốc, bọn con trai đã nghe thấy tiếng người rì rì rào rào càng lúc càng gần hơn, cho đến khi tràn ngập cả phòng ăn. Một trăm đôi chân, nào lê lết, nào rầm rập, dậm thịch thịch, hay nhún nhảy khắp căn phòng, khi các vị khách tìm chỗ của mình.

Tùm hụp trong bóng tối, Charlie và Billy lắng nghe tiếng nhai thức ăn, tiếng nhóp nhép và nuốt ừng ực phía trên đầu. Charlie bị mắc kẹt giữa hai cặp cẳng dại thật dài mặc quần tây đen. Nó quyết định di chuyển và lùi trúng Billy, rủi thay, thằng này đặt luôn tay lên một bàn chân đi giày bạc.

“Xin ông làm ơn...” Giọng một phụ nữ.

“Xin cô nói chi?” Người đàn ông đối diện bà ta hỏi.

“Ông đá phải tôi”.

“Cô lầm rồi. Ai đó đấy chứ”.

Đẩy May Phúc ra đằng trước, bọn con trai lật đật bò hết sức xa khỏi chiếc giày bạc. Vừa kịp lúc. Tấm khăn trải bàn được nâng lên và người phụ nữ đi giày bạc ngó xuống gầm bàn. Bọn con trai nín thở cho tới khi, với một tiếng hự khó chịu, người phụ nữ thả rơi tấm khăn xuống chỗ cũ.

Bữa tối cứ thế trôi đi và trôi đi và trôi đi. May Phúc đã ngủ khò và Billy bắt đầu ngáp. Thế rồi thì một tiếng suỵt rơi xuống căn phòng và tiến sỹ Bloor bắt đầu nói.

Sau lời chào mừng những vị khách, ông ta xướng to tên của tất cả các học viện: Loth, Oranga, Morhan, Derivere, Somphammer, Festyet, Ipakuk, Altabeeta... Danh sách còn dài nữa. Mắt Charlie bắt đầu sụp lại, và đột nhiên, nó mở bừng mắt ra. Tiến sỹ Bloor vừa mới thốt ra cái tên Lyell Bone, và cái tên đó được gắn liền với một kẻ tội phạm. Charlie ngồi thẳng đơ dậy, mắt ngước lên, ngó chằm chằm mặt dưới của chiếc bàn.

“Trong số các vị, vị nào đã ở đây mười năm trước thì sẽ nhớ ông nội tôi, Ezekiel Bloor, như một người chín mươi tuổi năng nổ và lanh lợi. Ngày nay, buồn thay, ông cụ bị chôn chặt trong chiếc xe lăn. Lyell Bone có họ hàng xa với chúng tôi, và vì vậy mà tội ác này càng gây sốc gấp bội”, tiến sỹ Bloor dừng lại và hắng giọng.

“Làm ơn”, một giọng gần Charlie cất lên, “nói cho chúng tôi biết tội ác này được thực hiện như thế nào đi.”

“Hắn ta xô tôi ngã”, lão Ezekiel hét om. “Rắp tâm giết tôi. Xô tôi. Đầu đập vào đá. Chính thế! Không thể đi lại được. Xong! ĐỒ VÔ LẠI!”

Một tiếng thở hốc rập rờn khắp phòng.

“Nhưng tại sao?” Một giọng khác hỏi, lần này là giọng phụ nữ. “Tại sao hắn ta lại làm cái điều kinh khủng như vậy?”

“Một số người trong các vị”, tiến sỹ Bloor tránh né câu hỏi ấy, “sẽ điều hành các thế lực của các vị theo cách thức khác với chúng tôi. Nhưng dù theo cách nào thì tất cả các vị cũng đều hành động vì những lợi ích của đại gia đình ngày càng đông đúc chúng ta. Cũng giống như các vị, chúng tôi cố kéo những đứa con của Vua Đỏ về phía mình. Chúng tôi tra cho chúng học bổng, nền giáo dục và những trang thiết bị hàng đầu. Chúng tôi bảo vệ chúng, nuôi dưỡng chúng, chuẩn bị cho chúng đương đầu với những khó khăn mà chúng có thể phải đối mặt khi trưởng thành... Đôi khi, do cần kíp vì lợi ích của chính đứa trẻ ấy, quý vị hiểu chứ, nên chúng tôi phải tách chúng khỏi cha mẹ chúng”.

“Ý ngài là ngài đánh cắp chúng ư?” Một giọng căm phẫn hỏi.

“Anh ta nói là “tách” mà”, lão Ezekiel rú lên. “Đánh cắp không dính vào đây. Vì điều tốt đẹp lớn lao hơn, chúng tôi phải kểm soát những đứa trẻ này, và nếu cha mẹ chúng có ý chống đối, thì vâng, chúng tôi phải đưa chúng đi bằng mọi giá.”

Có tiếng xầm xì tán đồng chạy dọc theo cái bàn trên đầu nó, nhưng Charlie nhận thấy có vài giọng bất đồng.

“Tuy nhiên”, lão Ezekiel tiếp, “trong trường hợp cụ thể của đứa trẻ biết bay này thì, cha của nó, tiến sỹ Tolly, đã rất hạnh phúc trao nó cho chúng tôi. Chính Lyell Bone đã cố ngăn cản điều ấy bằng cách xô ta ngã xuống đất. Sự phản kháng của hắn không thành và hắn đã bị trừng phạt đích đáng.”

“Và sự trừng phạt đó có xứng với tội danh không?” Ai đó hỏi bằng giọng cộc cằn.

“Có, thưa tiến sỹ Loth. Nhờ ơn cháu trai của ta, Manfred Bloor. Manfred, đứng lên con!”

Tiếng xịch ghế đằng xa dường như chỉ ra rằng Manfred đang ngồi ở cái bàn trên bục. Ai đó vỗ tay đẹt đẹt và những người khác hùa theo. Charlie không thể tưởng tượng được tại sao.

“Manfed có lẽ là một nhà thôi miên vĩ đại nhất từ trước đến nay”, lão Ezekiel tự hào loan báo. “Lúc mới chỉ có chín tuổi, cậu ấy đã xóa sạch được ký ức của Lyell Bone chỉ bằng một cú liếc mắt duy nhất. Người đàn ông đó giờ hoàn toàn vô dụng. Hắn ta thậm chí còn không biết mình là ai.”

Một bầu thinh lặng ngột ngạt theo sau lời nhận xét của lão, và vì lý do nào đó, điều này khiến lão Ezekiel cười phá lên. Lão cười hăng đến nỗi mém bị nghẹt thở. Charlie không thể chịu đựng nổi cái âm thanh đó. Suýt nữa thì nó không kiềm chế được cơn tức giận, nó phải bấu tay thật chặt vào người để ngăn mình khỏi nhảy xổ ra.

Bằng giọng kích động, tiến sỹ Bloor tiếp, “Cũng chính Manfred đã đưa đứa trẻ đó ‘vào vòng’. Con bé lúc ấy hai tuổi. Cơn mê kéo dài cho đến khi con bé mười tuổi, và rồi thì, thằng con trai lếu láo của Lyell Bone đã đánh thức nó dậy”.

Một tiếng sửng sốt buột ra. Có mấy câu lọt tới tai Charlie. “Ai vậy?” “nó đã làm cách nào?” “Ngài có...?” “Làm ơn...?”

“Thưa quý ông quý bà”, tiến sỹ Bloor nổ tung. “Xin đừng bận tâm. Đứa con gái đó còn học ở đây, và cả con trai của Lyell, thằng Charlie, cũng vậy. Những đứa trẻ được ban phép thuật dính với nhau như hồ dán. Charlie là kẻ du hành được vào tranh, vào hình – một tài phép quý giá, như các quý vị biết đấy. Nhưng nó tỏ ra rất ương bướng, chắc chắn bởi vì nó là con của cha nó, nhưng nó được canh chừng rất sít sao. Các quý bà quyến rũ ngồi bên tay phải tôi đây, bà nội của nó, Grizelda Bone, và ba bà cô của nó, Lucretia, Eustacia, và Venetia Yewbeam, tất cả bọn họ đều để mắt trông coi Charlie Bone...”

“Và một ngày nào đó”, lão Ezekiel chen vào, “Charlie sẽ đưa ta vào quá khứ, ở đó ta sẽ sắp xếp lại lịch sử.” Rồi lão ta lại òa ra cười lần nữa.

Tiến sỹ Loth rống vang: “Hoan hô!” và những người khác hưởng ứng lời kêu gọi. Nhưng một số người vẫn im lặng.

Billy, đang gối đầu lên May Phúc ngủ nãy giờ, thình lình tỉnh giấc kèm theo một tiếng hắt hơi nhỏ. Tức khắc tấm vải trải bàn được nhấc lên ngay trước mặt Charlie và một gương mặt lộn ngược xuất hiện. Gương mặt đó có râu quai nón và đội khăn xếp màu xanh da trời.

Charlie nhìn thẳng vào đôi mắt nâu đậm của người đàn ông. Nó không biết phải làm gì. Người đàn ông trố mắt nhìn lại nó. Charlie chờ xem chuyện gì xảy ra. Người đàn ông đội khăn xếp dường như cũng chờ đợi. Thế là Charlie là cái điều duy nhất mà nó nghĩ ra được: nó đặt một ngón tay lên môi.

Người đàn ông trao cho nó một nụ cười rộng ngoác và thả mẩu khăn trải bàn xuống trở lại.

Charlie chỉ vừa bắt đầu thở lại được thì một giọng mỏng quẹt, nóng nảy vang lên. “Tôi ngửi thấy mùi con trai!”

“Con trai!” Vài giọng lao nhao.

“Ngửi là phép của tôi mà”, cái giọng đàn ông mỏng quẹt đó tiếp, “tôi có thể ngửi thấy một thằng, có lẽ hai... hay ba”.

Charlie và Billy nhìn nhau rụng rời. Thế là hết. Chúng sẽ bị phát giác. Và rồi bỗng, Charlie nảy ra một ý. Nó chỉ May Phúc.

Billy khù khừ vào lỗ tai con chó già và May Phúc uể oải đứng lên. Với một cú đẩy nhẹ từ Billy, con chó lẫm đẫm bước đi dưới gầm bàn phủ khăn và ló ra sảnh ăn tối. Khi nó phẹt ra một mùi hôi gớm ghiếc chưa từng thấy. Cái mùi tệ hại và xộc mạnh đến nỗi Charlie suýt nữa thì ngất đi. Billy đã xúi May Phúc đánh một phát rắm hoành tráng nhất đời nó.

Tiếng la thét hốt hoảng và kinh tởm vang dội khắp phòng. “Uuuuuuuuaa!” “Phufuuuuu!” “Cái mùi gì vậy?” “Ra là một con chó!” “Một con chó già!” “Đồ quái vật!”

“Không phải mùi con trai, mà là mùi chó”, một giọng sùng tiết gầm lên.

“Cái mũi ông già nua rồi đấy, giáo sư Morvan”, giọng một phụ nữ đã ngà ngà say. “Chẳng phân biệt được con trai với con chó”.

Một tràng cười nối tiếp, và lão Ezekiel thét ỏm tỏi, “Đừng thô lỗ với con cún của ta thế. Nó không nhịn được mà”.

“Tôi nghĩ chúng ta nên đuổi cổ nó ra ngay đi, tiến sỹ Bloor”, ai đó đề nghị. “Tôi chắc chắn là nó muốn đi ngoài... à quên... muốn rời”.

“Ý hay đấy”, tiến sỹ Bloor tán thành. “Ai đó làm ơn...”

“Mà nhanh nhanh lên”, một giọng nữ khác chêm vào.

Một tiếng ghế cạ sàn. Có người chạy ù ra mở cửa. May Phúc thả một tiếng sủa cảm ơn rồi õng ẹo bước ra. Thêm tràng cười nữa.

May thay, con chó già vẫn để cái mùi hỡi ôi lại đằng sau, cái mũi của giáo sư Morvan đã hoàn toàn bị rối loạn, và ông ta chẳng phán gì thêm về mùi con trai nữa.

Khi tiếng cười đã lắng xuống, tiến sỹ Bloor ho khuc khặc rồi nói, “Tôi xin lỗi vì sự xao nhãng vừa rồi, nhưng bây giờ tôi muốn trở lại sự phát triển vô cùng quan trọng mà chúng tôi đã ngụ ý trong lời chào mừng quý vị ở đây tối nay.”

“Tất cả chúng tôi đang lắng nghe đây”, tiến sỹ Loth nói.

“Cảm ơn”, tiến sỹ Bloor chờ cho đến lúc im lặng như tờ rồi mới tiếp tục với sự phất khích dồn nén. “Trước tiên tôi phải nahwcs qua cho quý vị về lịch sử của một nhân vật mà ngay cả tôi cũng chưa bao giờ nghe nói đến, cho tới tuần vừa qua. Bá tước Harken Badlock”.

Im lặng, Rõ rằng chẳng ai biết gì về cái ông bá tước Harken Badlock này. Charlie chăm chú lắng nghe, nhận thức rằng mình sắp sử nghe được điều gì đó cực kỳ vô cùng quan trọng.

“Bá tước Harken Badlock mười tám tuổi khi đến Tây Ban Nha. Ngài bắt đầu tán tỉnh nàng Berenice xinh đẹp, con gái của hiệp sỹ Toledo. Vị bá tước trẻ này vốn là một thầy bùa, và rất nhanh chóng, nàng Berenice đã ngấm bùa mê của ngài. Họ sắp sửa cưới nhau thì...”

“Chắc chắn nàng Berenice cưới Vua Đỏ”, một giọng cắt ngang.

“Thật vậy, đóng thế”, tiến sỹ Bloor đồng ý. “Nhưng đã có một cuộc tranh chấp tay đôi giữa hai người đàn ông ấy, và bá tước Harken Badlock đã thua. Bởi vì, so kè tất cả yêu thuật, tất cả bùa mê ngài có thì đều không sánh được với phép thuật của Vua Đỏ, và thế là ngài đành để mất nàng Berenice yêu kiều”.

Khán thính giả của tiến sỹ Bloor hồi hộp chờ đợi câu chuyện tiếp diễn, đúng như nó buộc phải vậy.

“Như quý vị đã biết đấy, hoàng hậu Berenice chết khi đứa con thứ mười của bà là Amoret ra đời. Vua Đỏ, theo phong tục của dân tộc ngài, đã vào rừng để than khóc vợ. Những người con của ngài được để lại dưới sự chăm sóc của những đầy tớ – cho đến khi bá tước Harken Badlock xuất hiện. Đúng vậy, các bạn của tôi, ngài đến để bảo vệ những người con của Berenice yêu dấu. Ngài đã dạy họ tất cả những gì ngài biết, đã bảo vệ họ khỏi sự cướp bóc của những kẻ lạ, và rồi cưới người con gái cả của nhà Vua, Lilith.”

“Làm thế nào mà đột nhiên tất cả những điều đó được đem ra ánh sáng vậy, tiến sỹ Bloor?” Có ai đó hỏi.

Một khoảng dừng nghẹt thở. Da đầu của Charlie dựng tê rật rật và nó tưởng tượng tiến sỹ Bloor đã nhoài người ra trước trong tư thế đắc thắng. “Bởi vì tôi đã được nghe từ chính ngài bá tước”.

Một tiếng thở gấp vì không tin nổi đồng loạt vang lên trước khi tiến sỹ Bloor tiếp tục, “Tôi biết, thật khó mà tin rằng một người sống cách đây chín trăm năm lại sống cùng với chúng ta lần nữa. Nhưng đó là sự thật. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục về điều đó.”

Át hết thảy dàn hợp xướng của những câu hỏi lẫn lời phản đối, lão Ezekiel già khú rít lên, “Ngài chỉ là cái bóng trong bức chân dung của Vua Đỏ, nhưng ai đó đã giải phóng Ngài ra rồi”.

Charlie bấu cánh tay Billy chặt đến mức thằng nhỏ khẽ thở hốc ra đau đớn. Trong ánh sáng mờ mở bên dưới gầm bàn, Charlie có thể thấy cặp mắt Billy mở to không kém gì mắt mình. Cái bóng, thằng nhỏ nói lớn. Charlie gật đầu.

Tiếng ồn đón nhật sự tiết lộ của lão Ezekiel rộ lên tới mức rúng động.

“Ai đã giải phóng ngài?”

“Bây giờ ngài ở đâu?”

Đó là hai câu hỏi được nghe rõ nhất, vượt lên hẳn những câu hỏi khác. Tiến sỹ Bloor nài nỉ mọi người im lặng và khi sự rúng động lắng xuống, ông ta đáp, “Ngài ở đâu ư? Ngài an toàn. Ngài đã thích nghi với thế kỷ này theo cách thần kỳ nhất. Ngài chỉ cần mười phút là học xong ngôn ngữ của chúng ta, và một khi đã học được rồi thì ngài có thể làm quen với những thể chế chính trị của chúng ta, hệ thống tài chánh, mốt quần ái, những thói quen của chúng ta, tóm lại là...”.

“Nhưng rồi, ngài vẫn là một thầy bùa”, lão Ezekiel chen tọt vào.

“Quả đúng như vậy, vâng” tiến sỹ Bloor nói. “Không may, ngài cần phải một chút tàn nhẫn khi tìm cho mình một ngôi nhà, và một nguồn thu nhập, nhưng những điều như thế chẳng thể lúc nào cũng tránh được”. Ông ta buông một tiếng cười ghê rợn. “Về điểm này tôi đành yêu cầu quý vị, các vị khách kính mến của tôi, không được nhắc lại một lời nào trong những lời tôi vừa nói với quý vị ở bên ngoài tòa nhà này. Chúng ta đã quen với việc giữ bí mật, đúng không? Chúng ta phải vậy thôi, không thì thế giới này sẽ tẩy chay chúng ta”.

Có tiếng rì rầm nhất trí, rồi giọng nói của tiến sỹ Loth sang sảng nhấn chìm những giọng khác. “Đó là ai?” Ông ta hỏi. “Ai đã giải phóng cái bóng, và giải phóng ra làm sao?”

“À”, tiến sỹ Bloor ngừng lại. “Bá tước không rõ lắm. Ngài quả quyết việc đó được thực hiện bằng một cái gương – gọi là Gương Thần của Amoret. Chúng tôi đã tìm thấy ngài trong tiền sảnh, giữa trận bão tuyết. Người giải thoát ngài đã lỉnh đi khỏi”.

“Ở đây chúng tôi nghĩ là Venetia”, Lão Ezekiel eo éo. “Bà ấy là người tinh thông nhất trong chúng tôi. Một kẻ ma mãnh nhất”, lão cười khặc khặc.

“Hừm, không phải,” bà cô Venetia nói một cách sưng sỉa.

“Vậy, quý vị... “ tiến sỹ Bloor bắt đầu.

“Đó là tôi”, một giọng cất lên. “Tôi đã làm đấy”.

“Cô?” Ngài hiệu trưởng nghe có vẻ kinh ngạc hết sức.

“Phải, chính tôi. Tôi đã tìm thấy Gương Thần của Amoret.”

Charlie đông cứng người. Mọi dây thần kinh trong cơ thể nó bắt đầu giật giật. Nó biết giọng nói đó. Đó là giọng nói của cái người mà nó không bao giờ ngờ tới.