Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương - Chương 2




CON NGỰA MA



Vào ngày đầu tiên của học kì mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám tóc.



“Mày nghĩ mày giống cái gì hả?” Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.



“Chắc giống khủng long ạ?” Charlie gợi ý. “Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra.”



“Tóc thì như hàng rào,” bà nội xương xẩu của nó càu nhàu. “Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor người ta không ưa thứ bê bối đâu.”



“Lại đây, cún cưng,” một người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.



“Ngoại Maisie! Ui da!” Charlie thét lên.



“Xin lỗi, cún cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng phải làm thế thôi.”



“Dạ.” Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự trút ra cho mình một tô cốm bắp.



“Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi,” nội Bone làu bàu. “Giáo sư Bloor là người cực khắt khe về vụ đúng giờ.”



Charlie ấn muỗng cốm bắp vô miệng, nói, “Vậy thì sao ạ?”



“Đầy một miệng như thế thì đừng có nói,” nội Bone rầy.



“Cứ mặc nó, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Nó cần phải được ăn sáng ngon lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới.”



Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề cười; kể từ khi căn nhà của bà em Venetia của bà bị cháy rụi.



Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để vơ mấy cái túi đi học của nó.



“Áo chùng!” Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái áo ra và một tấm hình nhỏ bay xuống sàn nhà.



“Benjamin,” nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. “Bồ đang ở đâu?”



Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình hoàn toàn không phải để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.



Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng có thể thấy gương mặt nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của mình.



Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng, nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với những cú xuất hiện ấy.



Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô Chappimix.



Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con rắn xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con mèo rực rỡ nằm trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.



Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào giỏ, rồi chạy xuống lầu.



“Đừng quên...” ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước và chạy tới đầu đường Filbert.



Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài. “Anh thấy em chạy tới,” cậu bé nói. “Bác tài nói không thể đợi được nhưng anh bắt bác ấy phải đợi.”



“Cảm ơn anh Fido,” Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.



“Có mang áo chùng không?” Fidelio hỏi.



Charlie lôi tấm áo nhàu nhì ra khỏi giỏ.



“Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: ‘Nó kìa, Thằng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện Bloor, giống con két mào bảnh chọe!’ Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện Bloor, đúng không?”



“Em không phải là con két mào bảnh chọe,” Fidelio bật cười. “Anh cá là sáng nay em lại quên chải đầu.”



“Em chải rồi.”



Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.



Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần, mẹ nó bảo với nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra... Charlie bất giác rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.



Chìm giữa đám con nít áo chùng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie nhóng tìm Emma Tolly và Olivia Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng... phải đó là Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ. Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc nâu cắt ngắn.



“Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie,” con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến chỗ Charlie.



“Olivia hả?” Charlie thốt lên. “Chuyện gì vậy?”



“Tớ sắp thử vai cho một bộ phim,” Olivia nói với nó. “Trông phải nhỏ hơn tớ.”



Chúng leo lên một dãy bậc thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Weedon, gã gác cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như vậy cho đến tận chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối tuần.



Charlie bước vô tiền sảnh rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. “Phim gì vậy?” Nó hỏi Olivia.



“Sssh!” Có tiếng suỵt đâu đó bên tai Charlie.



Charlie ngước lên, thấy một đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra trường rồi chứ.



“Anh hy vọng mày chưa quên luật, Charlie Bone!” Manfred gừ.



“Kh... không, anh Manfred,” Charlie coi bộ không quả quyết lắm.



“Vậy thì...” Manfred bật ngón tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi miên của Manfred chút nào.



“Coi, luật như thế nào hả?” Manfred tra hỏi.



“Ờm...



Im lặng trong hành lang



Không được nói lan man



Không được khóc hay la



Ngay cả khi bị ngã.



“Ờm...” Charlie không thể nhớ ra câu cuối cùng.



“Viết câu đó ra một trăm lần và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!” Manfred nhe răng cười nham hiểm.



Charlie không biết là Manfred có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.



“Thưa vâng, anh Manfred,” nó làu bàu.



“Mày phải tự biết xấu hổ về bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?”



“Dạ,” Charlie bất chợt nhìn thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là Manfred vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt đi.



Olivia đã biến mất vào biển áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.



Fidelio đang chờ nó ngay cửa, bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Chu cha! Thiệt động trời!” Fidelio thở hì hụi. “Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ.”



“Em cũng tưởng thế,” Charlie nói. “Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng thoát được Manfred ở đây chớ.”



Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc không?



Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới mẻ đối với nó.



“Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được,” Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay. “Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi.”



Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng. Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng ngay sau lưng Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.



“Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa,” nó thì thầm với Charlie, “Nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi.”



“Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà.”



Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy – những hậu duệ của Vua Đỏ.



Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học mới của nó, lấy sách vở và tìm thầy Paltry (người được phân công dạy kèn trumpet cho nó.)



Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân dung treo trong hành lang sáng lờ mờ – đề phòng một người trong số họ muốn nói chuyện – và đến căn-tin xanh da trời.



Charlie bước vào hàng, đợi lấy phần ăn. Một phụ nữ thấp người, hơi đẫy đà sau quầy thức ăn nháy mắt với nó.



“Mọi việc tốt cả chứ, Charlie?” Bà hỏi.



“Dạ, cám ơn bà bếp trưởng,” Charlie đáp. “Nhưng chắc phải một thời gian con mới quen được với năm thứ hai.”



“Tất nhiên,” bà bếp trưởng nói. “Nhưng con biết ta ở đâu rồi đấy, nếu con cần đến ta. Ăn đậu nhé, Charlie?”



Charlie nhận lấy một dĩa mì macaroni phó mát với đậu và thơ thẩn dạo quanh các bàn ăn cho đến khi nó tìm thấy Fidelio, đang ngồi với Billy Raven và Gabriel Silk. Mái tóc nâu rũ rượi của Gabriel che gần hết khuôn mặt, và miệng nó hơi bễu ra, có vẻ buồn ủ ê.



“Vụ gì vậy, anh Gabe?” Charlie hỏi. “Lũ chuột kiểng của anh vẫn ngon chớ?”



Gabriel rầu rĩ ngước lên:



“Học kỳ này tôi không học piano được nữa rồi. Thầy Pilgrim đi rồi.”



“Đi rồi?” Charlie tự dưng hốt hoảng. “Sao? Đi đâu?”



Gabriel nhún vai.



“Tôi biết thầy Pilgrim lập dị, nhưng, ừm, thầy thiệt... tài giỏi.”



Hẳn là không ai phủ nhận điều này. Ai cũng từng nghe tiếng đàn dương cầm của thầy vọng xuống từ Tháp Nhạc. Charlie chợt nhận ra là nó sẽ nhớ tiếng đàn ấy lắm. Và nó sẽ nhớ những khi thầy Pilgrim nhìn đăm đăm vào khoảng không, mái tóc đen của thầy luôn rủ xuống mắt.



Fidelio quay sang Billy.



“Vậy kỳ nghỉ của em thế nào, Billy?” Nó thận trọng hỏi. Bởi lẽ làm thế nào mà không phát điên lên được khi phải trải qua cả kỳ nghỉ trong Học viện Bloor cơ chứ?



“Tốt hơn mọi khi,” Billy vui vẻ nói. “Bà bếp trưởng chăm sóc con Rembrandt đúng như đã hứa, và em gặp nó hàng ngày. Và anh Manfred đi vắng một thời gian nên ở đây khá yên ổn, thiệt vậy, chỉ trừ... chỉ trừ...”



Một mảng tối thoáng hiện trên mặt Billy...



“Có chuyện xảy ra hồi tối qua. Một chuyện thiệt quái lạ.”



“Chuyện gì?” Cả ba đứa kia cùng hỏi.



“Em trông thấy một con ngựa trên trời.”



“Ngựa?” Fidelio nhướn cặp chân mày. “Ý em là một đám mây trông giống hình con ngựa?”



“Không. Một con ngựa đàng hoàng.” Billy gỡ mắt kiếng ra và chùi vô tay áo. Đôi mắt đỏ đậm của nó dán chặt vào Charlie. “Kiểu như nó lơ lửng trên trời, bên ngoài cửa sổ, và sau đó tan đi.”



“Mấy ngôi sao cũng làm vậy được mà,” Gabriel nói, giờ đã tươi tỉnh hơn một chút. “Chúng có thể tạo ra ảo ảnh hình thú hay đồ vật.”



Billy lắc đầu.



“Không! Nó là một con ngựa.”



Nó đeo kiếng trở lại và nhăn nhó với dĩa đồ ăn của mình.



“Không xa em đâu. Ngay ngoài cửa sổ. Con ngựa rướn người lên và đá đá không khí, làm như nó đang chống trả để được tự do vậy, xong rồi nó... tan đi.”



“Giống như nó đang lùi vào một thế giới khác,” Charlie vuột miệng nói.



“Đúng rồi,” Billy hồ hởi nói. “Anh tin em, phải không anh Charlie?”



Charlie thủng thỉnh gật đầu.



“Anh thắc mắc giờ nó đang ở đâu?”



“Lang thang quanh lâu đài hoang với lũ ma khác chắc?” Fidelio nhận xét một cách bông phèng. “Thôi nào, tụi mình ra hít thở chút không khí thoáng đãng đi. Không chừng cả đám sẽ thấy một con ngựa đang phi nước đại quanh vườn đó.”



Tất nhiên là nó chỉ giỡn thôi, nhưng ngay khi bốn thằng bé bước qua cổng vườn, Fidelio chợt nhận ra lời nói của mình hóa ra lại thực một cách ma quái. Nó là đứa duy nhất trong bốn đứa không có phép thuật. Fidelio có thể là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng tài năng của nó không thuộc dạng được xếp vào hàng phép thuật.



Charlie chính là đứa chú ý đến vật ấy trước tiên: một tiếng thịch yếu ớt trên bãi cỏ khô ráo.



“Anh có nghe thấy không?” Nó nhìn Gabriel.



Gabriel lắc đầu. Nó chả nghe thấy gì, nhưng có cái gì đó hiện diện trong không khí mà nó không thể xác định được.



Billy bị tác động mạnh nhất. Cu cậu đột ngột lùi phắt lại, nhúm tóc trắng dựng lên theo một làn gió phớt qua mà ngoài nó ra, không đứa nào cảm nhận được. Thằng bé giơ một bàn tay lên tựa như đỡ một cú đấm.



“Nó vừa sượt qua,” Billy thì thào.



“Tụi em tính đánh lừa anh đó hả?” Fidelio nói.



“Không lừa đâu,” Charlie nói. “Giờ nó đi rồi. Có lẽ nó chỉ muốn cho tụi mình biết là nó đang ở đây.”



Chúng bắt đầu băng qua thảm cỏ rộng mà giáo sư Bloor thích gọi là khu vườn của ông ta. Thực ra nó không khác gì một cánh đồng, bao quanh là có rừng cây rậm rạp, gần như không thể chui vô được. Ở cuối sân, những phiến đá đỏ của tòa lâu đài cổ thấp thoáng giữa những hàng cây: lâu đài của Vua Đỏ. Bốn thằng bé đi về phía những bức tường đỏ cao vọi ấy, hầu như theo bản năng.



Ông cậu Paton của Charlie đã kể cho nó nghe chuyện năm người con của Vua Đỏ đã bị ép buộc phải rời vương quốc của vua cha mãi mãi như thế nào khi hoàng hậu Berenice qua đời. Tan nát cõi lòng, nhà vua biến mất vào những khu rừng phương bắc, và Borlath, con trai cả của nhà vua, chiếm giữ lâu đài. Hắn ta trị vì vương quốc bằng sự bạo tàn, man rợ đến nỗi hầu hết các cư dân hoặc là chết hoặc là bỏ trốn trong kinh hoàng.



“Hử?” Fidelio nói. “Mấy người nghĩ là con ngựa ma đó ở đây sao?”



Charlie ngước nhìn lên những bức tường lừng lững.



“Em không biết,” nó ngó Billy.



“Phải,” thằng bé thì thầm. “Nó ở đây.”



Mấy đứa kia lắng nghe thiệt chăm chú. Trên mảnh sân phía xa xa, tiếng đám học trò hò hét và nói cười huyên náo, tiếng một trái banh chạm đất, tiếng chim bồ câu rừng gù, nhưng ngoài ra không nghe được tiếng gì khác.



“Em chắc chứ, Billy?” Charlie hỏi.



Billy co rúm người lại. Nó đang run lẩy bẩy.



“Em nghĩ nó muốn nói chuyện, nhưng nó bị kẹt ở phe kia.”



“Phe kia là phe nào?” Fidelio hỏi



Billy nhăn nhó. “Em không thể giải thích được.”



Charlie chợt cảm giác có ai đó đang đứng đằng sau chúng. Nó quay lại, đúng lúc thấy một bóng người nhỏ choắt vụt đi và lẫn vào đám nam sinh mới đang chơi banh với nhau.



“Ai vậy?” Gabriel hỏi.



“Nhóc mới,” Charlie nói.



Không thể nói được thằng nhóc kia ở khoa Hội họa, khoa Kịch hay khoa Nhạc vì nó không mặc áo chùng. Hôm nay trời ấm áp và nắng đẹp. Mùa hè vẫn chưa hết.



Tiếng tù và rúc vang khắp sân và bốn thằng bé chạy trở vô trường.



Với Charlie, buổi chiều hôm ấy cũng chẳng khá gì hơn buổi sáng. Cuối cùng nó cũng tìm thấy thầy Paltry, nhưng quá trễ cho buổi học.



“Đi học mà không đem theo kèn trumpet thì nói làm gì hả?” Ông thầy già cấm cẳn. “Trò chỉ tổ làm mất thời gian, Charlie Bone. Được ban phép thuật, hừ, vớ vẩn. Sao trò không sử dụng cái gọi là phép thuật của trò để xác định coi cây kèn trumpet của trò ở đâu? Giờ, ra khỏi lớp và đừng có trở lại cho đến chừng nào trò tìm thấy kèn.”



Charlie hấp tấp ra đi. Nó không biết ở đâu mà tìm.



“Tháp Nhạc có không?” Charlie tự hỏi. Dám một trong những người lao công đã tìm thấy kèn của nó và đem cất vô phòng thầy Pilgrim trên đỉnh tháp.



Đường đến Tháp Nhạc phải xuyên qua một cánh cửa nhỏ, trông cổ xưa, gần lối ra vườn. Charlie gồng mình, mở cửa ra và bắt đầu bước vào một hành lang dài, ẩm ướt. Trời tối đến nỗi Charlie gần như chẳng thấy bàn chân mình đâu. Nó cứ dán mắt vô một khung cửa sổ đằng xa trong căn phòng nhỏ hình tròn ở cuối hành lang.



Khi đến gần căn phòng hơn, nó bỗng nghe thấy những tiếng nói, những giọng nói giận dữ – những người đàn ông đang cãi nhau.



Có tiếng bước chân khua. Charlie đứng im thin thít cho đến lúc có ai đó xuống đến chân dãy cầu thang xoắn ốc, dài. Một bóng hình xuất hiện ở cuối hành lang. Cái bóng đó lừng lững tiến về phía Charlie và nâng đôi cánh màu tím lên, che khuất hết ánh sáng.



Bị ngập chìm trong bóng tối, Charlie thét lên thất thanh.



Cậu bé dính vụn giấy trên tóc



“Im!” Một giọng rít lên.



Charlie co rúm người ép vào vách tường khi người đó, hay vật đó, lướt qua và vút ngang cánh cửa ra tiền sảnh.



Charlie không biết phải làm gì. Nó nên quay lại quãng đường nó vừa đi qua, hay là tiếp tục lên tháp? Cái người rít lên hồi nãy có thể đang ở trong tiền sảnh, chờ nó. Nó chọn cách đi lên tháp.



Ngay khi chui vô căn phòng hình tròn tràn đầy ánh mặt trời ở cuối hành lang, Charlie cảm thấy định thần lại. Đôi cánh màu tím kia là đôi cánh tay của một chiếc áo chùng, nó suy luận. Và cái ngườui giận dữ nọ chắc hẳn là một giáo viên của trường, đang tranh cãi với ai đó. Nó bắt đầu leo cái cầu thang dai, xoắn ốc lên đỉnh tháp. Học viện Bloor có năm tầng lầu, tuy nhiên phòng dạy nhạc của thầy Pilrim lại ở trên một dãy cầu thang khác.



Charlie lên đến chiếu nghỉ nhỏ, chỗ có những quyển sách dạy nhạc được cất trên kệ, trong thùng và chất thành đống bừa bộn dưới sàn nhà. ở giữa các dãy kệ, có một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi dẫn vô phòng nhạc. Một tờ tin nhắn được ghim ngay chính giữa cánh cửa. Thầy Pilrim đi rồi.



Charlie lục lọi đám thùng và họp, nhấc những chồng bản nhạc lên, rồi tìm kiếm đằng sau những cuốn sách nặng nề trên kệ. Nó tìm được một cây sáo, một nắm dây đàn violin, một hộp bánh yến mạch và một cây lược, nhưng không có kèn trumpet.



Thử tìm ở phòng kế bên liệu có ích lợi gì không? Charlie nhớ là trong ấy chỉ có một cây đàn dương cầm lớn và cái ghế đàn, không còn gì khác. Nó nhìn lại tờ tin nhắn. Thầy Pilrim đi rồi. Trông như báo điềm chẳng lành, như thể có lời nhắn khác ẩn đằng sau bốn con chữ in mỏng manh kia, rằng: Cấm vào, không ai cho các người vào đây.



Nhưng Charlie là một thằng bé vốn thường không thể ngăn mình làm những điều mà tất cả các biển báo bảo nó đừng làm.Tuy nhiên, lần này nó chú ý gõ cửa trước khi bước vào. Thiệt ngạc nhiên, nó nhận được câu trả lời.



“Gì,” một giọng nói mệt mỏi vang lên.



Charlie bước vào.



Giáo sư Saltewather đang ngồi trên chiếc ghế đàn. Hai cánh tay thầy khoanh lại bên trong chiếc áo chùng xanh da trời, mái tóc dày bạc trắng của thầy dựng đứng lên theo một phong cách rối bời, hờ hững. Thầy mang một vẻ mặt mà trước giờ Charlie chưa tùng thấy ở thầy: lo lắng và bơ phờ



“Con xin lỗi thầy,” Charlie nói. “Con đang tìm cây kèn trumpet của con.”



“Ừ,” thầy Saltewather liếc nhìn Charlie.



“Con nghĩ là nó không có ở đây.”



“Ở đây chẳng có gì cả,” thầy Saltewather nói.



“Con xin lỗi, thưa thầy.”



Charlie toan đi thì chợt có điều gì đó xui khiến nó hỏi:



“Thưa thầy, thầy Pilrim hiện ở đâu ạ?”



“Ở đâu?” Giáo sư Saltewather nhìn Charlie như thể thầy vừa mới trông thấy nó tức thì. “À, Charlie Bone.”



“Dạ phải, thưa thầy.”



“Ta không biết thầy Pilrim đi đâu. Đó là điều bí ẩn.”



“Ồ,” Charlie định quay đi một lần nữa nhưng lần này nó lại nói tiếp:



“Lúc nãy con va phải ai đó ở ngoài hành lang, con nghĩ đó có thể là thầy Pilrim.”



“Không phải, Charlie,” ông thầy dạy nhạc nói hơi gằn giọng. “Đó chắc chắn là thầy Ebony, thầy chủ nhiệm mới của trò.”



“Thầy chủ nhiệm mới của con?”. Charlie nuốt nước miếng khan. Nó nghĩ đến đôi cánh tím, giọng nói rít chìn chịt.



“Ừ. Nói không ngoa thì cũng hơi đáng lo.”



Giáo sư Saltewather thảy cho Charlie một cái nhìn soi mói, như thể thầy đang tự hỏi xem có nên nói gì nữa không.



“Ông Ebony đến đây để dạy môn lịch sử,” Nhưng ông ấy lại xuất hiện với một lá đơn xin từ nhiệm của thầy Pilrim. Ta không biết ông ấy kiếm được tờ đơn đó bằng cách nào. Và bây giờ người...người đàn ông này...muốn dạy piano.” Giáo sư Saltewather cao giọng. “Ông ta mò lên đây, đính một tin báo lên cánh cửa, cố đuổi ta ra khỏi một phòng học thuộc chính khoa của ta...Thật không thể chịu nổi!”



“Đúng đấy, thưa thầy,” Charlie tán đồng. “Nhưng thầy ấy mặc áo chùng tím mà, thầy.”



“À, đúng, thế đấy!” Giáo sư Salte wather đan một bàn tay vô mái tóc bạc của mình. “Hình như ông Tantalus Ebony ở khoa nhạc Kịch, nên mới mặc áo choàng màu tím.”



“Ra là vậy,” Charlie nói, mặc dù bây giừo nó rất hoang mang. Nó chưa bao giờ nghe nói tới một giáo viên dạy ba khoa một lúc.



“Tất cả đều là sự sắp xếp của giáo sư Bloor, nên ta có thể làm được gì nào?”Giáo sư Saltewather xòe rộng hai bàn tay ra. “Giờ, tốt hơn trò nên đi đi, Charlie. Rất tiếc về cây kèn trumpet của trò. Thử tìm ở một trong những phòng của khoa Hôi họa coi. Họ vẫn hay vẽ các nhạc cụ của chúng ta mà.”



“Khoa Hội họa. Con cám ơn thầy,’ Charlie nói đầy vẻ biết ơn.



Các phòng của khoa Hội họa chỉ có thể đến được bằng lối cầu thang chính và Charlie mới vừa đặt bàn chân lên bậc thang đầu tiên thì Manfred xồ ra từ một cánh cửa trong tiền sảnh.



“Mày chép phạt xong chưa?” Manfred lạnh lùng hỏi.




“Ờm, chưa.”



Manfred tiến đến gần Charlie:



“Đừng quên đấy, không thì mày sẽ phải chép thêm một trăm câu nữa.”



“Ừ, quên, Manfred. À... ý em là không quên đâu.”



Manfred thở dài bực bội và bước đi khỏi.



“Xin lỗi,” Charlie bất ngờ nói, “Nhưng anh vẫn còn là... ừm.. học sinh, phải không anh Manfred?”



“Không. Hết rồi!” Gã thanh niên cáu kỉnh sủa. “Anh là trợ giảng. Và hãy gọi anh là thầy.”



“Dạ, thưa thầy.” Từ thầy nghe thật tức cười khi áp dụng cho Manfred, nhưng Charlie mỉm cười, hy vọng là rốt cuộc nó đã áp dụng đúng.



“Và đừng quên đấy.” Manfred huỳnh huỵch bước trở lại phòng Huynh trưởng và đóng sầm cửa lại.



Charlie vẫn chưa tìm ra phòng làm việc của Manfred. Bây giờ nó đang đắn đo giữa việc tìm kiếm cây kèn và việc chép phạt một trăm dòng. Nhưung rồi nó sực nhớ ra là nó không thuộc câu cuối của Luật Tiền Sảnh. “Emma sẽ cho mình biết,” nó tự nhủ và bắt đầu bước lên cầu thang.



Emma thường có ở trong phòng triển lãm của khoa Hội họa, một căn phòng dài, thoáng đãng, nhìn ra vườn. Nhưng, hôm nay căn phòng có vẻ trống không. Charlie lục soát kho đựng màu vẽ và xem kỹ các kệ ở cuối phong, sau đó no băng qua phòng triển lãm và đi xuống cầu thang xoắn bằng sắt dẫn xuống xưởng điêu khắc.



“Chào, Charlie!” Có tiếng gọi to.



“Ê, lại đây nè,” một giọng khác nữa.



Charlie ngó quanh, thấy hai cậu bé đeo tạp dề xanh lá cây đang cười tioe toét với nó từ hai bên của một khối đá lớn. Một cậu có gương mặt nâu và mặt cậu kia thì tái xanh. Hai người bạn của Charlie hiện đang học năm thứ ba. Cả hai đều lớn phổng lên qua một kì nghỉ hè, và cả tóc của chúng cũng vậy. Lysander, cậu bé người châu Phi, giừo có một mái đầu xoăn dài, tươm tất, được tô điểm bằng những hột cườm đủ màu, trong khi Tancred vuốt keo lên mái tóc cứng đơ, vàng nhạt của mình thành một rừng chông tua tủa.



“Cái gì lôi em xuống đây vậy, Charlie?” Tancred hỏi.



“Em đang kiếm kèn trumpet của em. Chà, em gần như không nhận ra hai anh.”



“Em chẳng thay đổi gì,” Lysander nói với nụ cười rộng ngoác. “Em thấy năm thứ hai thế nào?”



“Em không biết. Em hơi rối một tí. Em đi lôn lớp hoài. Em bị mất kèn trumpet. Em gặp rầy rà với Manfred và có một... à... ừm, môth thứ ở trong vườn.”



“Một thứ, ý em là sao?” Mái tóc vàng của Tancred nổ lép bép.



Charlie kể cho chúng nghe về con ngựa mà Billy đã nhìn thấy trên trời, và về tiếng vó ngựa trong vườn.



“Hay ghê,” Lysander nói.



“Quái gở,” Tancred bảo. “Anh thì không ưa cái vụ đó.”



Hai ống tay áo sơ mi của nó giật giật. Tancred khó mà che giấu được phép thuật của mình. Nó giống như một cái hàn thử biểu biết đi, tâm trạng của nó ảnh hưởng đến không khí xung quanh đến mức ta có thể nói rằng nó có thời tiết riêng của nó.



“ Em phải kiếm cây kèn trumpet tiếp đây,” Charlie nói. “À mà, câu cuối của luật tiền sảnh là gì nhỉ?”



“Dù bạn thấp hay cao,” Lysander nhanh nhảu nói.



“Cám ơn anh Sander. Em phải viết hết ra một trăn lần trước bữa tối, và phải nộp cho Manfred – nếu em có thể tìm ra văn phòng của hắn. Các anh có biết nó ở đâu chứ?”



Tancred lắc đầu và Lysabder nói, “Không hề.”



Charlie định quay trở ra lối cũ thì Tancred đề nghị nó thử tìm ở nơi khác xem sao.



“Tìm ở đằng đó coi,” Tancred vừa nói vừa chỉ một cánh cửa ở cuối xưởng điêu khắc. “Tụi mới tới đang học bài vẽ đầu tiên của chúng. Anh nghĩ anh có thấy nột đứa cầm kèn trumpet.’



“Cám ơn anh, Tanc!”



Charlie bước vô một căn phòng mà trước giờ nó chưa hề thấy. Chừng mười lăm đứa trẻ đang yên lặng ngồi quanh một chiếc bàn dài, vẽ ký họa. Mỗi đứa có một tờ giấy khổ lớn và một đồ vật trước mặt. Tất cả bọn chúng đều đang tập trung hết mức vào tác phẩm của mình, và không đứa nào ngẩng lên khi Charlie xuất hiện



“Trò muốn gì?’ Một người đàn ông gầy gò, tóc vàng nhạt, mặt tàn hang cất giọng từ đầu bàn. Một giáo viên dạy vẽ mới, Charlie đoán.



“Kèn trumpet của em, thưa thầy,” Charlie nói.



“Và tai sao trò nghĩ nó ở đây?” Ông thầy hỏi.



“Bởi vì, nó kia ạ!” Charlie vừa nhìn thấy một cây trumpet giống y chang kèn của nó. Món nhạc cụ đang được một thanừg bé loắt choắt, dính đầy vụn giấy trên tóc, vẽ theo. Thằng bé ngước nhìn Charlie.



“Joshua Tilpin,” Thầy giáo gọi, “Trò lấy cây trumpet đó ở đâu vậy?’



“Nó là kèn của con, thưa thầy Delf.” Joshua Tilpin có đôi mắt ti hí màu xám nhạt. Nó hơi nheo mắt lại và nhăn mũi với Charlie.



Charlie không thể kếm mình nổi. Nó chồm về trước giật lấy cây trumpet và lật ngược lên coi. Học lỳ trước nó đã khắc chữ CB thiệt nhỏ gần miệng kèn. Cây trumpet này là của nó.



“Cây kèn co ghi tên viết tắt của em. Thưa thầy.”



“Đưa tôi coi nào,” Thầy Delf chìa bàn tay ra.



Charlie đưa cây trumpet cho thầy.



“Tên em là Charlie Bone, thưa thầy. Thầy coi này, đó là tên viết tắt của em.”



“Trò không nên làm xấu nhạc cụ như thế này. Nhung xem ra nó đúng là kèn của trò. Joshua Tilpin, dao trò lại nói dối?”



Tất cả lớp đếu nhìn Joshua. Nó không đỏ mặt, như Charlie mong đợi. Thay vào đó, nó toét miệng cười hết cỡ, phô hàm răng nhỏ xíu, khấp khểnh.



“Con xin lỗi thầy. Thành thực, thành thực xin lỗi anh, Charlie. Giữon chơi thôi mà. Làm ơn, tha lỗi cho em!”



Cả Charlie lẫn thầy giáo đều không biết phải trả lời nó thế nào. Thầy Delf đưa trả cây trumpet cho Charlie, nói:



“Trò nên trở về lớp của trò đi.’



“Dạ, cám ơn thầy.”



Charlie nắm chặt cây kèn của mình và quay ra cửa. Nó ngoái nhìn thiệt kĩ Joshua Tilpin khi bước ra. Nó có cảm giác kỳ kỳ là à thằng bé mới vô này có phép thuật. Hai ống tay áo cỉa Joshua phủ đầy mảnh giấy vụn và những mẩu gôm nhỏ li ti. Đúng lúc Charlie nhìn, một mẩu ruột bút chì gãy đột nhiên bật ra khỏi bàn và dính vào ngón tay cái của thằng bé. Nó ngoác miệng cười ranh mãnh với Charlie và búng mẩu bút chì đi. Charlie cảm thấy như có một sợi chỉ vô hình đang kéo giật nó về phía thằng bé xa lạ.



Nó lật đật rời khỏi phòng và sợi chỉ kia đứt rời.



Xưởng điêu khắc rộn vang tiếng thép chạm vào đá. Tancred và Lysander không phải là những người duy nhất đang đục đẽo các khối đá. Charlie vung vẩy cây kèn của nó trên không.



“Em thấy rồi nè,” nó la lớn.



“Biết mà,” Tancred nói.



Mối ưu tiên kế tiếp của Charlie là một trăm dòng chép phạt. Nó nên viết ở đâu đây? Nó quyết định viết tại phòng học mới của nó. Khi băng qua tiền sảnh, nó bị chìm lỉm trong từng đám con nít – một số ùa vô sau khi vừa chơi ngoài vườn xong, số khác chạy rầm rập từ cầu thang xuống, số nữa thì túa ra từ những phòng để áo khoác. Dường như đứa nào cũng biết đích xác mình đang đi đâu, ngoại trừ Charlie. Hình như có sai sót khủng khiếp gì đó trong thời khóa biểu của nó. Nó dấn bước lên, hy vọng ít ra sẽ tìm thấy vài đứa học cùng niên học với nó ở trong lớp.



Có một tờ thông báo ghim trên cửa lớp. thông báo được in bằng kiểu chữ theo lối cổ, giống như những chữ trên tờ thông báo ở cửa phòng thầy Pilrim:



Tantalus Ebony




Nhạc, Kịch Câm và Lịch Sử Trung Đại



Charlie áp tai vào cánh cửa. Không một tiếng động phát ra từ phía bên kia. Nó bước vào. Không có học sinh nào trong phòng, nhưng có một thầy giáo đang ngồi bên chiếc bàn cao trước của sổ; một thầy giáo có khuôn mặt dài, mỏng quẹt, và chân mày đen giao nhau ở sống mũi. Mái tóc đậm màu che khuất lỗ tai, và mảng tóc dày trước trán chấm ngang ngay trên chân mày. Ông thầy mặc áo chùng tím.



“Gì đó?” Thầy giáo nói, ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách. Charlie nuốt nước miếng. “Em đến để chép phạt, thưa thầy.”



“Tên gì?” Giọng của người đàn ông này ồ ồ như phát ra từ dưới lòng đất.



“Charlie Bone, thưa thầy.”



“Lại đây!” Thầy giáo ngoắc nó bằng một ngón tay trắng, dài thoòng.



Charlie Bone bước đến bên bàn. Người đàn ông nhìn nó chòng chọc mất trọn một phút. Tròng mắt trái của ông ta màu xam, còn mắt phải thì màu nâu. Đó là điều đáng ngại nhất. Charlie bị thôi thúc phải nhìn đi chỗ khác, nhưung nó đứng tấn chặt chân xuống đất và nhìn vào một mắt trước, và rồi nhìn qua con mắt kia. Một cái cau mày giận dữ sượt qua trên gương mặt của người đàn ông và ông ta ngả người ra sau, gần như là ông ta sợ Charlie đã thấy được phần nào đó của con người ông ta mà ông ta quyết giữu bí mật. Cuối cùng, thầy giáo nói:



“Tôi là Tantalus Ebony.”



“Em đoán thế, thưa thầy.”



“Đồ kiêu ngạo. Đứng yên đó.”



Charlie định nói là nãy giờ nó không hề nhúc nhích, nhưng thầy Ebony đã tiếp:



“Tại sao trò không đi chung với các bạn cùng lớp trò?”



“Em bị nhầm lẫn một chút, thưa thầy.”



“Nhầm lẫn? Nhầm lẫn chỉ dành cho bọn năm thứ nhất. Một khởi đầu không hề hứa hẹn cho năm thứ hai của trò, đúng không, Charlie Bone? Và trò nói là mới thế trò đã bị chép phạt rồi. Ta tự hỏi là vì sao vậy?”



“Em nói chuyện trong tiền sảnh, thưa thầy.”



Phản ứng của Ebony thật đáng kinh ngạc. Ông ta bỗng cười rú lên. Toàn thân rung lắc với những tràng cười không sao kìm nén được.



“E hèm,” ông thầy ho khẽ một tiếng. “Thế thì, đi và chép phạt đi. Và chớ quấy rầy ta. Ta ngủ đây.”



Thầy Ebony kéo nón áo chùng tím trùm lên đầu và nhắm mắt lại. Vẫn ngồi thẳng người tại chỗ, thầy bắt đầu gáy.



Có thể nào có người không nhìn mình mà lại đang theo dõi mình không? Charlie có cảm tưởng là ông thầy lạ vẫn còn thức. Hay chính xác hơn, rằng một người khác, đằng sau khuôn mặt đang ngủ kia, vẫn còn đang canh gác.



Sau khi chờ vài giây, Charlie nhón chân đi đến bàn của nó, lấy ra nột cuốn vở bài tập và bắt đầu chép luật tiền sảnh. Nó vừa mới viết xong dòng cuối cùng thì chuông báo giờ uống trà reng lên. Thầy Ebony mở mắt ra, hất cái nón ra sau, và quát:



“ĐI!”



“Vâng, thưa thầy.” Charlie thu gom giấy bút của nó và hấp tấp rời khỏi phòng.



“Nãy giờ em ở đâu vậy?” Fidelio hỏi khi trông thấy Charlie trong căn-tin.



“Còn anh nãy giờ ở đâu?” Charlie nói.



“Anh học tiết tiếng Anh, rồi ra chơi.”



Charlie thấy một cuối tuần bị cấm túc hiện ra trước mặt. Thầy Carp, giáo viên tiếng Anh, hẳn sẽ không tha thứ cho nó việc cúp một tiết học.



“Em chép phạt cho Manfred,” nó rầu rĩ nói. “Và em vẫn chưa tìm thấy văn phòng của hắn ở đâu.’



Fidelio chả gíup được gì, cả Gabriel cũng không nốt khi thằng này đến nhập bàn của chúng.



“Có chuyện gì với thằng đuôi ngựa thế?” Nó vừa nói nhằn thanh kẹo Choclix. “Ý tôi là, Manfred được giao làm cái gì thế? Hắn không còn là Thủ lĩnh nam sinh nữa, và hắn cũng không phải là giáo viên. Vậy hắn là cái gì?”



“Hắn là kẻ thôi miên,” Charlie nói nghiêm trang. “Trước nay hắn vẫn thế và sẽ luôn là thế. Hắn chắc chắn sẽ ở đây hoài hoài, để hoàn thiện kỹ năng cho tới khi nào thành một lão phù thủy già mốc meo như ông cố của hắn.”



“Miễn là hắn tránh khỏi đường tôi, tôi không quan tâm hắn là cai gì.” Gabriel nuốt chửng phần Choclix còn lại và chùi chùi ngón tay vô ống tay áo. “Mà này, tôi đã quyết địng học piano với thầy Ebony rồi. Tôi không thể bỏ học đàn được, và thiệt tình, thầy ấy cũng khá giỏi.”



Không hiểu vì sao việc này bỗng khiến Charlie lo lắng.



“Nếu em là anh, em sẽ học lớp cô Crystal,” nó khuyên Gabriel. “Thầy Ebony... thầy nhìn vậy mà không phải vậy đâu. Em nghĩ thầy ấy nguy hiểm lắm.”



Mấy đứa kia dòm nó đầy thắc mắc, nhưng Gabriel không thể giải thích được cảm giác của nó.



Sau bữa trà, Charlie xách kèn trumpet của nó đến phòng thầy Paltry. Ông thầy già đang yên lặng dùng một tách cà phê.



“Lúc này ta không thể dạy trò được,” ông thầy cáu kỉnh gắt. “Đặt kèn lên kệ và để cho ta yên.”



“Vâng, thưa thầy.” Charlie cất kèn trumpet của nó lên kệ cùng với năm cây kèn khác, hy vọng cây kèn sẽ không bị thất lạc hay bị đánh cắp lần nữa.



“Nhưng thưa thầy, thầy có biết văn phòng của anh Manfred Bloor ở đâu không ạ?”



“Ta làm sao biết hết các phòng trong tòa hhà này, đúng không nào?” Thầy Paltry phất nhẹ một bàn tay đầy tàn nhang. “Giờ thì, xùy.”



Bon trẻ được dặn là bỏ áo chùng trong nhà vào hững ngày nắng, bởi vì, tin hay không thì tùy, trong học viện tối tăm này lạnh hơn ngoài trời. Cho nên, bỏ áo chùng ở trong phòng để áo khóac, Charlie ra vừơn và hỏi hết những ai mà nó có thể níu lại được coi họ có biết văn phòng của Manfred ở đâu không. Chưa có ai từng nghe nói về căn phòng đó cả. Charlie lại chạy vô nhà. Khi mặc cái áo chùng xanh da trời lên, nó thọc mấy ngón tay vô túi áo. Ba ttrang giấy chép phạt đã biến mất.



“Không!” Charlie ré lên, ngay lúc Gabriel bước vô.



“Gì đó?” Gabriel hỏi



Charlie kể lại sự tình và mười lăm phút tiếp theo Gabriel giúp nó lục soát phòng để áo khoác, nhưng ba trang giấy không thầy đau cả. Fidelio xuất hiện và tham gia cuộc truy lùng. Chúng tìm trong các phògn học trống và thậm chí xuống cả căn-tin. Và rồi tienég tù và báo hiệu giờ ăn tối.



“Có ai đó quyết tâm làm em bị rắc rối,” Charlie rên rỉ. “Em mất tất cả mọi thứ, kèn trumpet, giấy chép phạt...Tiếp theo là gì nữa đây?”



“Đi ăn tối cái đã,” Fidelio nói. “Đồ ăn giúp ích cho bộ não.”



“Hừm!”Charlie ậm ừ



Ba đứa đi xuống sảnh anh lớn dài hun hút như hang động và ngồi vào chỗ của chúng ở cuối bàn khoa Nhạc.



Đám giáo viên ngồi bên một cái bànkê trên bục cao ở cuối sảnh đường, và Charlie chú ý thấy Manfred đang ngồi kế bên cha hắn. Vậy là, bây giờ hắn đã chính thức là thành viên trong giáo ban. Ít nhất thì hắn sẽ không làm bài tập chung với tụi nó nữa, Charlie nghĩ thầm.



Bữa tối gần xong thì giáo sư Bloor đứng dậy và vỗ vô tay. Cả căn phòng im ngay tắp lự. Người đàn ông vạm vỡ bước ra phía trước bục và dò xét những hàng trẻ con ở phía dưới. Dáng ông ta oai vệ trong chiếc áo chùng đen, vai rộng, tóc xám tỉa tót gọn gàng và ria mép thẳng như một cây thước. mắt ông ta gần như khuất hẳn dưới đụn mí thịt dày, và thiệt khó mà nói chúng màu gì. Bây giờ trông chúng là màu đen, nhưng Charlie biết chúng màu xam.



Phải một lúc sau vị hiệu trưởng mới mở lời. Lũ trẻ ngóng nhìn ông ta, chờ đợi. Cuốii cùng ông ta nói:



“Có vài lời với những trò được ban phép thuật mới vô. Các trò biết mình là ai rồi, vì thế tôi sẽ không nêu tên các trò ra nữa. các trò sẽ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Sẽ có người chỉ đường cho các trò.Các trò hiểu rồi chứ?”



Charlie Bone nghe có ba giọng nói nhẹ hều cất lên:



“Dạ, hiểu ạ.” Nó không thể thấy những giọng nói ấy phát ra từ đâu, nhưng chúng chắc chắn không thuộc về bất cứ ai đang ngồi bên bàn khoa Nhạc.



Giáo sư Bloor thình lình hét vang, “GIẢI TÁN!”



Bọn trẻ rầm rập hành động một cách chính xác tuyệt đối. Ghế ngồi cạ rít trên sàn đá, dĩa được thu dọn và xếp thành chồng, ly uống nước va lách cách, dao nĩa xô vào nhau xủng xẻng, và rồi tất cả cùng đổ dồn ra cửa. Khi Charlie leo hết tầng đầu tiên, nó có thêm Gabriel và Billy nhập bọn; Emma Tolly đi đằng trước, còn Tancred và Lysander đang bay vọt ngang một dãy cầu thang khác, lên lầu hai.



Emma chờ cho Charlie bắt kịp, nó nói:



“Mình tìm thấy đám này dưới sàn nhà phòng để áo khoác của khoa mình,” con bé vừa nói vừa chìa ra ba tờ giấy nhàu nhì. “Mình nghe nói mấy bồ đang đi tìm.”



“Giấy chép phạt của mình,” Charlie kêu lên, chụp lấy xấp giấy. “Cám ơn bồ, Emma. Nhưng làm sao chúng lại lọt vô phòng để áo khoác khoa Hội họa được?”



“Chịu, không biết,” Emma nói.



Charlie dúi mấy tờ giấy vô vặp sách của nó. Có tiếng bước chân nặng nề sau lưng khiến nó quay lại nhìn và thấy Dorcas Loom đang chầm chậm bước lặc lè lên cầu thang. Đó là một đứa con gái phục phịch, tóc xoăn màu vàng nhạt và làn da khỏe mạnh. Dorcas là kẻ ái mộ cuồng nhiệt bà cô của Charlie, bà Venetia – bà này với tài phép của mình có thể may nên những bộ quần áo có ma thuật chết nười.



“Ngó cái gì mà ngó?” Con bé sưng sỉa.



“Con mèo cũng có thể nhìn nữ hoàng kia mà,” Charlie đáp.



Dorcas “Hứ” một tiếng kinh tởm, và tiếp tục ì ạch lên cầu thanh.



Charlie và lũ bạn nó bước vô phòng Nhà Vua – căn phòng hình tròn, lạ lùng với chiếc bàn tròn và những bức tường cong, sách xếp thành hang.



Manfred đang đúứng ở cạnh bàn đằng kia, dòm thẳng ra cửa. Tim Charlie lộn nhào, và rồi nỗi thất vọng dội khắp người nó như một cơn sóng bệnh hoạn khi nó trông thấy một dáng người gập cong đang ngồi cạnh Manfred. Đó là Asa Pike, kẻ nô lệ trung thành của Manfred – thằng bé có thể biến thành thú khi trời tối. Thằng đó phải ra trường rồi mới đúng, sao nó vẫn còn ở đây? Ngoài ra còn có ba đứa học trò mới ở trong phòng. Joshua Tilpin là một trong số đó.



“Lẹ lên! Lẹ lên,” Manfred sốt ruột ra lệnh. “Đừng có đứng chùm nhum ở cửa thế. Tôi có một thông báo quan trọng đây.”



Charlie rụt người lại và bước vòng quanh bàn đến một chỗ bên cạnh Tancred. Từ chỗ này nó có thể nhìn thấy bức chân dung Vua Đỏ. Một bức tranh cổ vẽ một hình người mờ ảo mặc áo chùng đỏ và đội vương miện vàng thanh mảnh. Gabriel, Billy và Emma theo sau Charlie trong khi Dorcas lăn vô phòng và dùng chân đóng cửa lại.



“Hãy tỏ ra chút tôn trọng nhà của ba tôi chớ!” Manfred mắng.



Dorcas trừng mắt, nhưung không dám nhìn thẳng vào mắt Manfred.



“Có người ngồi chỗ của em rồi,” nó càu nhàu.



“Đừng có ngớ ngẩn, Dorc,” Manfred nói.



“Dorc. Hay lắm,” Asa cười khụt khịt.



Manfred lờ nó đi. “Ngồi đâu cũng được, trò kia, lẹ lẹ lên.”



Nếu Dorcas muốn ngồi một bên Manfred thì quả là nó không còn cơ hội. Chèn vô giữa Manfred và Joshua Tilpin là hai con bé trông rất quái đản. Cả hai đều có tóc đen láng, cắt cụt ngay dưới tai, với một mớ tóc dày rủ trước trán; nước da nhợt nhạt và mướt trông như đồ sứ.



Hai chị em sinh đôi, rõ ràng, Charlie nghĩ thầm. Nếu chúngb là người thật. Bởi vì gương mặt chúngngây đờ, và cơ thể bất động, đến nỗi rất có thể chúng là búp bê.



Dorcas lết bết đi quanh bàn, và đặt sách vở của nó cạnh sách vở của Joshua. Thằng này đãi con bé một nụ cừơi rạng rỡ, phô hàm răng khập khiễng, và thực tình thì Dorcas cũng cười đáp lễ.



“Giờ mọi người có mặt ở đây cả rồi,” Manfred nói, liếc xéo Dorcas, “Tôi muốn giải thích một vài điều. Trước tiên, chắc hẳn các trò không ngờ lại gặp lại tôi. Ừm, các trò sẽ luôn gắn liền với tôi.”



Không đứa nào hó hé một tiếng, trừ Asa khịt mũi.



“Bây giờ tôi là thầy trợ giảng,” Manfred tiếp, vẻ trịnh trọng. “Công việc cụ thể của tôi là giám sat bài tập về nhà của các trò, kiểm soát sự phát triển của các trò, gác thi, và giúp đỡ trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến cá nhân hay công việc.”



Hắn dừng lại để lấy hơi và Charlie tự hỏi cái người quỷ quái nào trên đời này mà lại muốn nhờ cựu huynh trưởng giúp đỡ không biết.



“Giờ là phần giới thiệu,” Manfred gọi tên tất cả nhữung đứa ngồi quanh bàn cho đến khi tới lượt hai đứa côn gái bí hiểm ngồi cạnh hắn.



“Và đây là hai chị em sinh đôi, Inez và Idith Branko.”



Ngay khi nghe tên mình được xướng lên, cặp sinh đôi cúi đầu và nhìn chằm chằm vào dống sách trước mặt chúng. Với tốc độ kinh hoàng, đám sách bay xẹt qua bàn. Một chồng đáp oạch xuống đùi Charlie, và chồng kia hạ xuống đùi Tancred.



“Ối, không!” Tancred gầm gừ. “Siêu năng di chuyển đồ vật.”



Hai ống tay áo chùng của nó đột nhiên phồng lên, mái tóc vàng kêu lắc rắc và một làn gió thổi tung những xấp giấy nằm hớ hênh trên bàn.



“Tôi thấy mấy kì nghỉ hè rồi vẫn chưa cải thiện được khả năng tự chủ của trò, Tancred à,” Manfred nói bằng giọng móc mỉa.



Tancred và Charlie đứng dậy và đẩy mấy chồng sách của cặp sinh đôi trở về bên kia bàn. Hai con bé tịnh không nói một lời nào, và mặt chúng vẫn hoàn toàn lạnh băng.



Charlie không cưỡng nổi, nhận xét:



“Lịch sự thì phải cảm ơn chớ.”



Idith và Inez vẫn im lặng, nhưng một trong hai đứa, chả biết là đứa nào, bắn cho nó một cai nhìn cực gớm ghiếc.



“Hãy cố mà dế chịu với các nữ sinh mới, Bone.” Manfred nói. “Chị em sinh đôi có họ hàng với Zelda Dobinsky, người đã rời chúng ta. Rõ ràng cô ta là một thiên tài toán học, cho nên cô ta đã đi học đại học ở tuổi còn rất nhỏ. Rủi thay, Asa đây là sự trái ngược với thiên tài. Anh ta vẫn còn học với chúng ta vì thi rớt tất cả các kì thi.”



Cáu tiết vì xấu hổ, Asa càng sụ xuống hơn trong ghế ngồi của nó, và Charlie đột nhiên có một cảm giác hiếm thấy là thông cảm cho nó. Bị người mình ngưỡng mộ chế giễu chắc hẳn là rất đau đớn.



“Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trong, chúng ta có Joshua Tilpin,” Manfred loan báo.



Nghe thấy tên mình, Joshua bật dậy và cúi chào. Ai đó có thể nghĩ nó là một hoàng tử. Tuy nhiên nó trông thật lôi thôi. Áo chùng xanh lá cây bết đầy bụi, lá cây và cỏ lẫn với tóc, và một mẩu mạng nhện lòng thòng ở một bên tai.



“Ngồi xuống, Joshua,” Manfred nói. “Trò không phải là ngôi sao nhạc pop.’



Joshua cười tươi rói với hắn và, trước sự khinh ngạc của mọi người, Manfred cười lại. Nhận được nụ cười từ Manfred tựa như lấy được mứt từ một hòn đá vậy.



Gì tiếp đây? Charlie nghĩ. Nó toan bắt đầu làm bài tập về nhà thì Manfred nói:



“Charlie Bone, trò chưa nộp bài chép phạt cho tôi.”



“Ồ, xin lỗi, thưa thầy Manfred. Em có đem theo đây,” Charlie lục lạo túi xách.



“Tôi yêu cầu trò dem đến văn phòng của tôi mà.”



“Nhưng... Em không biết văn phòng ở đâu,” Charlie thú nhận.



Manfred thở dài. Hắn nhìn lên trần nhà và dõng dạc.



“Tôi ở đằng sau từ ngữ



Trên đường đến âm nhạc



Dưới một chái nhà



Và trước kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ.”



Hắn dừng lại để tạo hiệu quả và lái tia nhìn trở lại Charlie.



“Tôi diễn đạt rõ rồi chứ?”



Trong bất kì tình huống nào khác, Charlie chắc hẳn sẽ nói, “Rõ như nước ao tù,” nhưng vì tình cảnh này đã căng thẳng rồi, nên nó quyết định nói:



“Thưa vâng, thầy Manfred.”



“Tốt. Vây thì đem bài phạt của trò đến văn phòng của tôi trước giờ ngủ, nếu không thì trò sẽ bị cấm túc.”