Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương - Chương 12




CÂY THỦY TÙNG ĐEN



Charlie vùng vẫy như đang bơi dưới nước. Việc tiến đến một hình ảnh nào đó thì khác hẳn với việc chui vào một bức tranh hay một bức hình. Khuôn mặt của Amoret vẫn từ từ biến mất. Có vẻ như bà ấy đang cố gắng đưa nó quay trở về.



Nhưng Charlie không đi. Nó tìm cách tiến lên phía trước, quạt không khí sang hai bên và đạp vào cái sợi dây vô hình đang níu giữ nó quay lại. Cuối cùng nó cũng vào được trong căn phòng nơi có người phụ nữ đang đứng ôm chặt lấy hai đứa trẻ. Hoàng tử Amadis đã đi và Amoret đang nhìn thẳng vào Charlie.



“Đi đi” Amoret thét lên. “dù ngươi có là bất cứ ai cũng phải rời đi ngay!”



Và bây giờ Charlie mới nhận thức được những âm thanh khủng khiếp bên ngoài căn phòng. Tiếng dộng thình thình của những tảng đá lớn đập vào cánh cửa nặng nề, tiếng xé gió của những mũi tên., tiếng la hét và cả những tiếng rên rỉ của cuộc giao tranh ngoài kia. Nó lại trôi lềnh bềnh ra ngoài sân, trong đám đông hỗn loạn ấy, nó thấy một thằng bé tóc trắng với con quạ ở trên vai. Thằng bé đâm bổ tới một cái giếng và leo xuống. Ngay sau đó, tòa lâu đài chìm trong biển lửa và Charlie bị kẹt giữa những bức tường lửa ấy.



“Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Charlie hét lên kinh hoàng.



Nhưng có cái gì đó đang kéo nó xuống. Nó không thể thoát ra mà cũng không thể thở được.



Có một tiếng “rắc” chói tai vang lên, liền theo sau là tiếng kính vỡ tan. Nó gợi cho Charlie nhớ đến những vụ bể bóng đèn của ông cậu Palton, và ngay lập tức một câu hỏi bật lên trong đầu nó: liệu ông cậu có được an toàn ở nhà không?



“Charlie! Charlie! Quay lại nhanh!” một giọng nói xa xăm gọi nó.



Charlie chớp mắt và thấy mình đang nhìn vào một tấm gương vỡ với muôn ngàn tia sáng nhảy múa trên khắp các ô cửa. Những mảnh thủy tinh vỡ đầy quanh nó, lấp lánh như kim tuyến.



“Charlie!” Billy đứng đàng sau nó, tay cầm nến. “anh đã trở lại chưa?”



Charlie chớp mắt lần nữa và rùng mình. “ừ, anh đã trở lại.”



“Ông Tuccini phải phá kính. Em nghĩ là anh đã bị mắc kẹt trong bức tường lịch sử.”



“Có vẻ như đó là cách duy nhất để cứu cháu thoát ra ngoài.” Albert Tuccini nhìn Charlie. “Cái việc cháu làm thật là kì lạ. Nhưng không phải lúc nào cũng suôn sẻ nhỉ?”



“Vâng, không phải lúc nào cũng suôn sẻ.” Charlie thú nhận. “Nhưng con phải vào trong đó, bởi vì tổ tiên của con Amoret đang ở trong đó. Bà ấy chắc hẳn là đã ở trong tòa lâu đài khi nó bị thiêu cháy, trước khi biến thành gương. Nhưng những con cháu của bà đã ở đâu?”



“Không phải lúc nào mình cũng tìm ra câu trả lời đâu.” Albert nói, “Thôi nào. Cháu đã phải trải qua một vài chuyện dễ sợ đấy. Hãy đi nghỉ đi.”



“bức tường lịch sử đã bị vỡ rồi. Đó là lỗi của con.” Charlie nói, giọng rầu rĩ.



“Chỉ bề mặt bị vỡ thôi,” Albert nói. “Những bức tường rất dày. Chúng có thể chịu đựng một lực lớn hơn cái giày cũ của tôi rất nhiều.” nói rồi ông giơ một chiếc giày màu đen lên trước khi đeo nó vào chân trái, buộc chặt dây và tiến về phía cầu thang.



Khi Charlie quay trở lại phòng của Albert Tuccini thì những tia nắng bình minh đang bắt đầu len lỏi vào những bức tường bằng gương. Cơn bão đã đi qua và Albert nhận xét rằng hôm nay sẽ là một ngày đẹp trời. Nếu chúng rời đi nhanh, thủy triều sẽ đưa chúng an toàn vào đất liền.



“ba sẽ đi với tụi con chứ?” Charlie nài nỉ.



Albert xòe tay ra. “Tôi không dám.”



“Nhưng tại sao chứ? Chúng con sẽ giữ cho ba được an toàn mà.” Charlie hùng hồn. “Ba phải quay trở về, vì mẹ và vì mọi thứ.”



“Tôi đã có vợ rồi à?” Albert trông có vẻ sửng sốt.



“Tất nhiên. Chứ ba nghĩ con ra đời như thế nào?” Charlie nói một cách giận dữ. Đồng thời nó cũng cảm thấy một nỗi sợ hãi đang dâng lên. Nó đã tìm thấy cha nó rồi lại để ông ở một nơi mà có lẽ nó chẳng bao giờ có thể gặp lại. Nếu bà nội Bone mà biết nó đã đến hòn đảo này thì nhà Yewbeam chắc chắn sẽ chuyển cha nó đi một nơi nào đó mà nó khó có thể tìm thấy được.



Và chính là Billy đã thuyết phục được Albert khiến cho ông phải đi theo hai đứa nó. “Chúng cháu không thể tự chèo thuyền được.” Nó bảo, hai con mắt lớn của nó đầy lo lắng. “Chúng cháu cần ông giúp, ông Tuccini. Charlie không đủ khỏe để chèo suốt quãng đường như vậy lần nữa.”



Albert vuốt mái tóc quăn. “ừm. Có lẽ đó là điều tôi phải làm.” Ông dẫn hai đứa nó ra khỏi tòa tháp, băng qua cái sân và tiến đến một cánh cửa được làm bên trong những bức tường kính. Chỉ một cú đẩy và cánh cửa nhẹ nhàng mở ra. Khi chúng đã bước ra ngoài, Albert đóng cánh cửa lại. Bây trông nó thật khó phân biệt với những bức tường của tòa lâu đài. “Nó chỉ có thể được mở ra từ bên trong,” Albert bảo hai đứa nó. “Để đi vào người ta phải đi theo một đường ống.” Cái cảnh bà cô Eustacia trượt xuống theo đường ống thình lình lóe lên trong đầu Charlie, và nó tự cười nhăn nhở một mình.



Khi chúng đã đi vào bờ, Charlie kể cho Billy nghe về đứa con trai tóc trắng mà nó đã thấy trèo xuống giếng. “Đó là cách mà nó sống sót,” nó bảo Billy “Nó trèo lên sau đám cháy, và bằng cách nào đó nó đã đến được đất liền và đi đến châu Âu với con quạ của nó. Đó là nguồn gốc cái tên của em. Và người bảo vệ của em, Christopher Crowquill có tổ tiên là anh trai của tổ tiên em.”



“Có lẽ em sẽ có thể sống chung với Christopher Crowquill,” Billy nói một cách hi vọng.



Charlie im lặng. Christopher tội nghiệp bây giờ còn gặp nhiều nguy hiểm hơn Billy. Ông ấy còn không thể tự chăm sóc cho bản thân mình. “Ông cậu Palton sẽ biết phải làm gì,” Charlie lẩm bẩm.



Albert Tuccini sải những bước dài đằng trước tụi nó. Ông bảo chúng rằng ông đi bộ ra bãi biển mỗi ngày. “Để tập thể dục,” ông hét về phía chúng. “Hít thở không khí trong lành và giữ cho chân tay vẫn còn hoạt động tốt.”



May mắn là cơn bão đã thổi cái thuyền vào đất liền chứ không thổi ra biển. Albert và tụi nó xắn quần lên và cởi giày tất ra. Họ kéo thuyền xuống nước và trong khi Charlie và Billy ngồi co vào một chỗ, Albert ngồi đối diện và nắm lấy mái chèo. Lưng của ông xoay về hướng những vách đá cao trong đất liền nên ông không thấy hai hình dạng đang đứng ở bãi biển phía xa.



Charlie thấy họ đầu tiên. Tim nó đập cái thịch. Liệu có phải là nhà Yewbeam không? Billy cũng đã thấy và nó giật tay áo của Charlie. “Họ đến để bắt em về,” nó thút thít. “Đáng lẽ em nên ở lại trên đảo.”



“ở đó cũng không an toàn đâu,” Charlie bảo nó. “Bình tĩnh lại nào, có thể không phải là họ.”



Albert ngoái đầu lại. “Có người. Cháu có thể thấy là ai không, Charlie? Cháu có muốn quay trở lại lâu đài không?”



Charlie nheo mắt lại và chăm chú nhìn. “Không,” nó nói chậm rãi. “Con nghĩ – phải, phải, con biết chắc họ là ai.” Bởi vì một trong hai hình dạng đó đã bắt đầu rõ nét. Một người đàn ông cao với mái tóc đen và chiếc áo khoác cũng màu đen. “phải!” Charlie reo lên. “Đó là ông cậu của con Palton. Con không biết người kia là ai nhưng ông ấy rất nhỏ và bị gù. Con không nghĩ ông ấy có thể gây nguy hiểm.”



Charlie phấn khởi tới nỗi nó nhảy lên khỏi chỗ ngồi khiến cho con thuyền nghiêng sang một bên.



“woa!” Albert kêu lên. “Cháu sẽ khiến chúng ta rơi xuống nước mất, Charlie Bone!”



Được giúp đỡ bởi nước triều đang lên, họ vào bờ rất nhanh. Charlie nóng lòng muốn thấy mặt ông cậu Palton khi Albert bước lên bờ, bởi vì Lyell Bone đã từng là người bạn thân thiết nhất của ông cậu, và ông cậu chắc chắn sẽ giúp cho ông nhớ ra ông là ai.



“Ông cậu Palton!” Charlie gọi. “Đoán xem con tìm được ai này!”



Palton vẫy tay và hét lên. “Ta đã thấy mi đi với Billy Raven rồi. Còn đây là ông Crowquill.”



“Không, không! Ông cậu không hiểu rồi.” Charlie không thể chịu được sự trì hoãn.



Albert nhìn về bờ biển, nhưng ông cậu Palton không tỏ dấu hiệu gì là đã nhận ra ông. Chiếc thuyền cập vào bãi cát, Albert và hai đứa leo ra, lội bì bõm qua vùng nước cạn khi họ kéo chiếc thuyền vào bờ.



Charlie không thể chờ đợi thêm nữa. “Nhìn này, ông cậu Palton, con đã tìm thấy cha rồi.”



Ông cậu Palton nhìn Albert với một cái cau mày bối rối. Cuối cùng ông nói, “Charlie đây không phải là cha con.”



Charlie bị sốc tới mức không thốt nên lời.



“Họ gọi tôi là Albert Tuccini,” Albert nói, chìa tay ra. “rất vui được gặp ông.”



Ông cậu cũng tự giới thiệu mình và Christopher và họ bắt tay nhau.



Charlie cảm giác một khối chì đang đè nặng lên ngực mình. Nó đau đớn tới nỗi Charlie không thể nhúc nhích mà cũng không thể suy nghĩ được gì. Một đám mây thất vọng bao trùm lấy nó, bóp nghẹt mọi tiếng kêu. Nó lờ mờ trông thấy Christopher Crowquill đang ôm lấy Billy. Và nó cũng trông thấy ông cậu Palton đang lắng nghe Albert và đang nhìn ra biển về phía lâu đài bằng gương. Ông cậu chắc hẳn là đã thuyết phục được Albert không quay về hòn đảo nữa vì một lát sau cả cái nhóm người vui vẻ ấy cùng đi trên bãi biển.



“Charlie, vẫn ổn chứ nhóc?” ông cậu Palton ngoái lại và đợi nó đi cùng.



“Con … con … vâng,” Charlie nói một cách đau khổ. Nó bước đến bên ông cậu.



“Thất vọng lắm phải không? Ta xin lỗi, Charlie.” Ông cậu bóp chặt vai nó.



“Không sao. Con ngốc quá. Con đã biết không thể là ông ấy mà.”



“Một ngày nào đó sẽ là có thể,” ông cậu nói.



Charlie nhìn ông cậu và Albert kéo con thuyền vào hang động. Và rồi tất cả bọn họ đều leo lên những vách đá qua một cái vịnh khác nơi một con đường mòn hẹp uốn lượn đến tận đỉnh của vách đá.



Christopher Crowquill dẫn đường với Billy ở đằng sau. Kế đến là ông cậu Palton, theo sau là Charlie. Albert Tuccini đi sau cùng. Việc leo trèo khá nguy hiểm và khi họ đi được nửa đường, ông cậu Palton bảo, “Mi đã thấy bọn ta xuống thế nào rồi đấy, hầu như toàn đi bằng mông.”



Charlie cố rặn một nụ cười nửa miệng. Nó ngoái đầu nhìn lại tòa lâu đài bằng gương. Nó được che phủ bởi màn sương mù và chẳng mấy chốc không trông thấy đâu nữa. Nhưng những bí mật ghê gớm của nó vẫn còn ở đó, ẩn giấu trong những bức tường lịch sử và một ngày nào đó Charlie phải quay trở lại để khám phá chúng.



Khi họ lên tới đỉnh của vách đá, thủy triều đã lên cao. Đứng trên cao nhìn xuống, Charlie trông thấy những con sóng bạc đầu đang dộng ầm ầm vào thành đá đen lởm chởm.



Albert Tuccini đã theo dõi Charlie một cách lo lắng. Ông đặt tay lên cánh tay của nó và bảo, “Tôi xin lỗi, tôi đã không phải là cha của cháu.”



“Không sao đâu ạ,” Charlie nói, giọng nó nghe nghèn nghẹn.



Họ đi bộ lên đỉnh vách đá tới chỗ ông cậu Palton đã đậu xe. Khi họ đang quay đi, một con chim đột ngột thét lên tiếng kêu lảnh lót và tung cánh bay vào bầu trời. Charlie chăm chú nhìn về trước xem cái gì đã khiến con chim sợ hãi đến vậy và nó thấy một hình dạng đen thui đang đứng ngay trên lối mòn.



Ông cậu Palton đi chậm lại. “Cái gì..?” ông lắc đầu. ‘một cái cây” và vẫn sải bước đi trước.



Khi đến gần cái cây, họ thấy một mớ lùm xùm kì dị chẳng ra hình dạng gì. Những nhánh cây cong queo phủ những chiếc lá kim đen mỏng mảnh và vỏ cây thì chằng chịt những rãnh nứt nẻ.



“Một cây thủy tùng đen.”giọng ông cậu Palton rùng mình.



Trước mắt họ, một khuôn mặt méo mó tựa các thần lùn giữ của trong truyện cổ hiện ra trên lớp vỏ cây xù xì. Các nhánh cây co quắp lại khiến những chiếc lá kim rơi lả tả như mưa – mưa màu đen. Và thân cây quằn quại từ từ hiện nguyên hình là một người đàn ông cao lớn. Đó chính là Tantalus Ebony. Lão nhìn trừng trừng vào cái nhóm người đang đứng bất động trước mặt, cặp môi mỏng dính của lão uốn thành một nụ cười thâm độc.



Charlie không tin nổi vào mắt mình nữa. Tantalus Ebony là người biến hình?



Lão lên tiếng. “Chúng ta lại gặp nhau, Palton Yewbeam.”



“Cái gì..?”



“Thôi nào, Palton. Đừng nói với ta là mi không trông đợi giờ phút này nhé. Ta đã cảnh cáo mi, đúng không, rằng nếu mi làm hại con gái ta, Yolanda, mi sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mi?” giọng nói vang rền như thể nó đến từ sâu trong lòng đất. “MI ĐÃ GIẾT ĐỨA CON GÁI YÊU QUÍ CỦA TA!” lão đột ngột rống lên.



“Yorath,” Palton nói chẳng chút sợ hãi, “Con gái ông là một con quái vật.”



Lão biến hình gầm lên giận dữ và lao hết tốc lực về phía Palton. Charlie có thể mục kích những gì sắp diễn ra. Bất kể mạng sống mình, Tantalus sẽ đẩy ông cậu vào vách đá. Charlie níu chặt lấy Palton, nhưng ông cậu đã đẩy tay nó ra và bước lên đằng trước.



Đột ngột, một thân hình nhỏ bé màu xám lao vào Tantalus. Trong giây lát, họ vật lộn với nhau, và rồi, ngạc nhiên làm sao Christopher Crowquill đã ép được lão biến hình kia tới vách đá. Nó xảy ra nhanh đến mức không một tiếng kêu, không một động tác nào đủ nhanh để ngăn cho cả hai người đâm thẳng đến bờ vực – và thế là hết!



Có một tiếng thét và rồi im lặng.



Palton chạy tới chỗ hai hình người đã biến mất. Ông giang tay ra khi Charlie và Billy nhảy tới. “KHÔNG!” ông kêu lên, bắt tụi nó trở về chỗ cũ. Nhưng Charlie đã thấy mặt nước sủi bọt và những tảng đá đen. Không có gì khác, ngoại trừ một con chim đang chao cánh trên ngọn sóng. Một con quạ hay một người biến hình?



“Ông ấy đã hi sinh để cứu tôi,” Palton nói giọng khàn khàn.



“Tại sao?” Billy gào lên “Tại sao ông ấy lại làm như vậy? ông ấy là người họ hàng duy nhất của tôi. Người bảo vệ của tôi. Bây giờ chẳng còn ai hết.”



“Vẫn còn có chúng tôi đây.” Charlie nói.



“Tại sao? Tại sao vậy?” Palton lắc đầu. “Thật không hiểu.” ông như đang cố thu mình lại. “Chúng ta phải rồi khỏi đây thôi. Tôi sẽ báo động cho người bảo vệ bãi biển khi chúng ta đã đi xa khỏi cái nơi quỉ quái này. Không thể làm gì hơn được nữa.”



Một thoáng im lặng, họ lại tiếp tục đi cho đến khi họ đến được chỗ để xe của Palton. Charlie và Billy ngồi băng sau trong khi Albert ngồi ghế trước.



Trong khi lái xe, ông cậu Palton giải thích cuộc tấn công của lão già biến hình cho Albert Tuccini, lúc này vẫn đang còn hoang mang, nghe. “Lão quá già đến nỗi lão phải mượn hình dạng và đôi khi cả trí óc của những sinh vật khác. Con gái của lão cũng tồi tệ như vậy. Bà ta đã giết mẹ tôi và rồi còn làm hại một người rất đỗi yêu quý của tôi.”



Charlie thì thầm, “Cô Ingledew?”



Billy ngoảnh đi và rúc vào trong góc, một bức tranh sầu thảm.



“bà ta chắc hẳn rất độc ác.” Albert nói.



“Tôi đã giật điện chết bà ta,” Palton nói tỉnh không.



Nếu Albert có bị sốc, ông đã không để lộ nó. Có lẽ một vài kí ức đang tái hiện lại. Những kí ức quá tệ khiến chẳng có gì làm ông ngạc nhiên được nữa.



Sau khi đã đi được khá lâu, họ dừng xe tại một quán cà phê ở bên rìa một thị trấn nhỏ. Thời tiết ấm áp và ngập nắng nên ông cậu Palton chọn chỗ ngồi ở ngoài trời. Ông đưa cho Charlie một danh sách các món và tiền đủ trả cho bốn suốt ăn trưa. Billy, có vẻ như đã khá hơn một chút, theo Charlie đi vào một căn phòng tối mờ, chỉ được thắp sáng bởi một vài bóng đèn yếu ớt.



“Sao ông cậu của anh không vào?” Billy huých khuỷu tay của Charlie khi nó đang gọi món với một người phụ nữ tóc màu đỏ tía sau quầy.



Charlie đưa mắt nhìn Billy vẻ cảnh báo và Billy hạ giọng, “Em đâu có nói gì sai?”



Charlie cười với người phụ nữ và cô cũng cười lại với nó trước khi biến vào sau một tấm màn được kết bằng các chuỗi hạt.



Khi Charlie và Billy trở lại bàn thì ông cậu Palton đang ở trong một trạm điện thoại công cộng bên kia đường.



“Ông ấy đang báo cảnh sát về vụ việc,” Albert nói. “Thật là một chuyện kinh khủng.”



“Một chuyện tốt và một chuyện xấu, thật vây.” Charlie nói mà không suy nghĩ.



Billy bắn cho nó một ánh nhìn tổn thương. Albert không nói gì. Một lát sau, một cô gái trong bộ váy đen cực ngắn xuất hiện với một khay bánh mì san-wich, nước khoáng, nước cam vắt và cà phê. Ông cậu Palton đã gọi điện xong, nói rằng ông đã làm hết sức để giải thích những chuyện đã xảy ra nhưng cảnh sát có vẻ chỉ xem nó là một trò đùa.



“Billy thân mến, ta không biết liệu điều này có giúp gì cho cháu không nhưng người bảo vệ của cháu đã rất rất quan tâm đến cháu. Mọi chuyện ông ấy làm đều có lí do của nó. Thật sự, ta tin là ông ấy đã hi sinh thân mình cho cháu. Trong suốt bảy năm qua, ông ấy rất mong chờ được gặp lại cháu. Ông ấy chưa bao giờ từ bỏ cơ hội để được ở bên cháu.”



Bằng một giọng yếu ớt, Billy nói, “Vâng.”



Albert Tuccini vẫn giữ im lặng suốt bữa ăn. Có một ánh nhìn xa xăm mơ hồ trong đôi mắt của ông, và ông có vẻ như không nhận ra những ngươi khác. Khi bánh đã được ăn hết (Charlie ăn phần của Billy), Albert nói rằng mình muốn vào phòng vệ sinh.



Vài phút trôi qua. Rồi mười lăm phút trôi qua và Albert vẫn chưa trở lại, ông cậu Palton trở nên lo lắng và Charlie được cử đi xem xét phòng vệ sinh. Không có ai ở đó cả.



Ông cậu Palton cau mày khi nghe tin này. “Không có ai? Chắc không nhóc?”



“Không hơn không kém,” Charlie nói.



Palton đứng dậy. “Ta phải đi xem.”



“Có nên không hả ông? Có rất nhiều đèn trong …,” Charlie nói.



Nhưng ông cậu của nó đã sải những bước dài qua cánh cửa của quán cà phê. Charlie cầu nguyện cho ông cậu không gây ra sự cố gì. Một lát sau, nó nghe tiếng quát của một người đàn ông, “Sue, bóng đèn trong phòng vệ sinh nam đã tắt hết rồi. thật là một đống lộn xộn. Mảnh thủy tinh khắp nơi.” Rồi tiếng ông cậu.



“ờ, vâng,” ông cậu Palton nói một cách lo lắng.



“Người đàn ông đó để lại lời nhắn cho ông.” Cô gái trao cho Palton một mảnh giấy đã được gấp lại rồi bước đi, càu nhàu rằng cô đã có quá nhiều thứ cần hơn là ba cái việc đưa thư và dọn phòng.



Ông cậu Palton mở tờ giấy ra. Biểu lộ của ông trở nên nghiêm trọng khi ông đọc nó. “Ta chẳng thể nói được gì. Ta ngạc nhiên quá. Tội nghiệp ông ta.”



“Trong đó viết gì vậy?” Charlie hỏi.



Ông cậu của nó đọc to tờ giấy lên.





“Ông Yewbeam thân mến,



Dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi rất vui được quen biết ông, Charlie và Billy. Nhưng chúng ta phải chia tay nhau ở đây. Đừng tìm tôi, tôi xin ông. Điều đó tốt hơn cho tôi. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những lần tới vui vẻ hơn.



Người bạn chân thành của ông,



Albert Tuccini (như đã gọi)”



“Ông ấy sẽ đi đâu?” Charlie hỏi. “Trong khi ông ấy còn không nhớ mình là ai?”



Ông cậu Palton nhún vai và nhét tờ giấy vào túi. “Ta tin rằng ông ấy là một nhạc công thiên tài, Charlie. Chúng ta hy vọng là ông ấy có thể tìm cho mình một cuộc sống tốt hơn ở đâu đó trên thế gian này.”



Họ quay lại chỗ chiếc xe và bắt đầu cuộc hành trình khác về phía nam, hướng đường Filbert và học viện Bloor. Sự ra đi đột ngột và dễ sợ của Christopher Crowquill đã choán hết tâm trí của Charlie nhưng giờ đây những kí ức về chuyến đi với hoàng hậu Berenice đột ngột quay về như dòng thác lũ và nó không thể tưởng tượng được tại sao mình lại quên nói cho ông cậu biết về chuyến đi ấy.



“Ông không hỏi con là làm sao con tìm được hòn đảo đó,” nó nói, nhoài người lên chỗ ngồi của ông cậu.



“bạn của mi, Tancred, đã nói cho ta biết về con ngựa trắng, nếu đó là những gì mi định nói,” ông cậu Palton nói. “Ta không thể nào khiến nó cúp máy được. Nó nói đủ thứ: lời thề và yêu quái, hồn ma và bão tố. Thằng nhóc đó có thể làm ra nó mà, đúng không? Nhưng đó không phải là thứ ta quan tâm. Hai đứa mi mấy ngày nay chắc chắn đã nằm dưới bàn may.”



“bàn may?”



“Nghĩa là bị vặn, ủi, vắt kiệt.” ông cậu Palton giải thích.



“bị ủi,” Billy nói nhỏ, “phải con cảm thấy bị ủi.”



“Này hai đứa nhóc, ta nên …” ông cậu Palton ngập ngừng và rồi ông nói, “Đừng bận tâm.” Charlie tự hỏi không biết ông cậu nó định nói gì. Giọng nói của ông mang một ngữ điệu cảnh báo, nhưng có lẽ ông cảm thấy tụi nó đã trải qua đủ chuyện trong ngày hôm nay rồi.



Im lặng một lúc lâu và Charlie lên tiếng, “Con ngựa chạy đi khi nó trông thấy hòn đảo. Không biết là bà ấy đã đi đâu.”



Khi đề cập đến hoàng hậu, Billy ngồi thẳng dậy và một nụ cười xẹt ngang trên khuôn mặt nó. “bà ấy nói là bà ấy sẽ không bỏ rơi chúng ta. Em nghĩ là chúng ta sẽ còn gặp lại bà ấy. Chắc chắn như thế. Bà ấy giống như tổ tiên của chúng ta vậy.”



Charlie rất vui khi thấy Billy phấn khởi như thế.



Một đốm sáng nhỏ chập chờn quanh tay áo của nó, Charlie bảo, “Ông cậu Palton, con đã tìm thấy cây đũa phép của con. Nói chính xác hơn là nó đã tìm thấy con. Bây giờ nó đã biến thành một con bướm rồi.”



“Chà, ngạc nhiên đấy.”



Sự bầu bạn của con bướm khiến Charlie cảm thấy được yên ủi, điều mà nó đang rất cần. “Ông sẽ không nói cho mẹ con biết về những gì con nghĩ chứ?” nó hỏi ông cậu, “Về cha con ấy?”



“Không, Charlie. Ta sẽ giữ bí mật.”



MẤT CÂN BẰNG



Khi họ đến được thành phố thì trời đã tối. Ông cậu Palton không lái xe thẳng tới đường Filbert, như Charlie đã mong chờ. Thay vào đó, ông đậu xe ngay bên ngoài tòa nhà quen thuộc và huyên náo nơi gia đình Fidelio sinh sống. Ngôi nhà Gunn.



“Chúng ta làm gì ở đây?” Charlie hỏi.



Ông cậu Palton xoay người lại. “Có vẻ như đây là giải pháp tốt nhất.” ông nói, nhìn vào Billy.



Billy đã im lặng gần như suốt quãng đường. Nó thậm chí cũng chẳng buồn tự hỏi mình sẽ đi đâu hay mình sẽ bị đem bán ở đâu. Có lẽ nó đã từng trông đợi là nó sẽ được sống tại ngôi nhà số 9, mặc dù với bà nội Bone ở bên, nó sẽ chẳng thể nào trốn được lâu. Bây giờ, cùng lúc, Billy há hốc miệng khi ông cậu Palton nói.



“ý ông nói là cháu sẽ sống ở đây?” Billy hỏi.



“Ta không thể nghĩ ra nơi nào tốt hơn,” ông cậu Palton nói. “Tất nhiên, ông bà Gunn đã đồng ý kế hoạch. Mi sẽ không bị để ý đến trong một ngôi nhà đã có tới bảy đứa lóc chóc. Đây là giải pháp của ông Crowquill.” Giọng ông cậu nhỏ lại. “Và cũng là một giải pháp tốt. Ông ấy luôn lo lắng cho mi, Billy à.”



Và rồi Charlie đã đoán được tại sao Christopher Crowquill lại cứu ông cậu Palton. Christopher đã bị ốm, cai cũng thấy điều đó. Ông ấy dễ dàng là một nạn nhân của nhà Bloor. Nhưng ông cậu, người đã được thừa hưởng một tài phép chết người thì không như thế. Christopher đã cứu người duy nhất mà ông ấy biết có thể bảo vệ Billy raven. Billy trông đã vui vẻ hơn. “Vâng, đó là một ý kiến hay. Cháu đã ở với gia đình Fidelio trước đây.”



Ngay khi họ ra khỏi xe, tiếng ồn trong căn nhà Gunn đã nuốt chửng họ. Đủ thứ loại nhạc cụ đang được đập, nện, thổi và cạo. Giọng nam trầm oang oang của ông Gunn và giọng nữ trầm cũng to không kém của bà Gunn đang cạnh tranh với các loại nhạc cụ của mấy đứa con, và cả tòa nhà đang rung lên.



“May là cái nhà này chưa sập.” ông cậu Palton nói. Ông nhấn một cái nút bên cạnh cửa chính.



Ngay lập tức một giọng nói đã được thu âm sẵn gầm lên, “CỬA! CỬA! CỬA!”. Rõ ràng chuông cửa chẳng có tác dụng gì trong cái cảnh om sòm huyên náo này.



Anh trai của Fidelio, Felix, ra mở cửa. “Charlie Bone!” nó kêu lên. “Fidelio đã phát ốm vì lo lắng cho em đấy. em đã ở đâu vậy?”



“Đó là một câu chuyện dài.” Charlie bước vào trong căn nhà, theo sát phía sau là Billy.



“Billy raven. Hai lúc nào cũng đi cùng với nhau,” Felix nói, tay sập cửa lại.



“Chờ đã,’ Charlie nói. “Ông cậu của em vẫn còn ngoài đó. Anh cảm phiền tắt đèn giùm.”




“Tai họa đến rồi! ông Yewbeam!” nó mở cửa và ông cậu bước vào đại sảnh tối om.



Ông bà Gunn vẫn tiếp tục bữa ăn trong nhà nhà bếp, trong khi Felix rống lên, “Đèn, đèn, ba mẹ ơi! Tắt đèn! Ông Palton người tăng áp đang ở đây!”



Charlie không thấy mặt ông cậu nhưng nó biết ông đang đỏ mặt bởi cái cách ông hắng giọng.



Vẫn hát, bà Gunn thò đầu ra khỏi nhà bếp. “Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì, cái gì, cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?” bà vẫn luyến láy theo âm C trưởng.



“Ông YEWBEAM, mẹ ơi!” Felix lại gào lên “Ông Yewbeam. Tắt đèn!”



“Chúa ơi!” bà hát lên rồi tắt đèn nhà bếp.



Lai có một tiếng gầm như hát của ông Gunn khi ông vấp phải con mèo điếc, và tiếng gào của con mèo bị dẫm phải đuôi.



“a, Billy đã được tìm thấy rồi,” bà Gunn nói khi nó thận trọng bước vào nhà bếp. “Chào Billy, con sẽ được an toàn ở đây, cưng à. Quá nhiều trẻ con, quá nhiều âm nhạc. Đây là một nơi ẩn trốn lý tưởng đấy.”



Ba vị khách ngồi ở bàn ăn, trong khi họ ăn bánh sandwich, Felix kể cho họ nghe một số tin tức từ học viện Bloor. Felix mới có bằng âm nhạc và sắp sửa tham gia một tua diễn vòng quanh thế giới cùng với nhóm nhạc của mình khi nó được nhà Bloor triệu đến để thế chỗ cho một giáo viên âm nhạc đã biến mất một cách bí ẩn. “Tên là Ebony.” Felix nói.



“Chúng em biết.” Charlie nói.



“Không thể từ chối được,” Felix thêm vào, “Mức lương rất hấp dẫn.”



“Ta cá là như thế,” ông cậu Palton nói. “Các chuyện khác thì sao?”



“Còn chuyện gì mà không xảy ra nữa chứ,” giọng Felix xúc động, “Gabriel silk đã bị hôn mê. Nó phải bỏ học.”



“Cái gì?” Charlie la lên. “Nó xảy ra như thế nào?”



“Liên quan đến cái áo choàng,” Felix nói. “Nhưng một đứa bạn khác nữa của em, đứa mà làm bão ấy…”



“Tancred? Điều gì đã xảy ra cho nó vậy?”Charlie làm rớt cái bánh và con mèo nhảy tới vồ lấy nó.



“Nó cứ điên tiết lên,” Felix nói, “Khiến cho mưa cứ rơi lên đầu đám bạn nó. Fidelio đã bị dầm mưa vài trận, Lysander cũng thế và Emma Tolly đã có một khoảng thời gian cực kỳ tệ hại. Mấy đầu ngón tay của nó bị sét đánh.”



“Không phải chứ!” Charlie không thể tin được điều đó. Cái gì đã xảy ra cho Tancred, khiến nó đối xử với bạn bè của nó như vậy? Charlie đã nghĩ tới việc nghỉ học một tuần để nghỉ ngơi, nhưng bây giờ chuyện đó không còn cần thiết nữa. Nó phải tìm ra chuyện gì đang diễn ra ở học viện Bloor. Những lời nói của bà bếp vang lên trong đầu nó. “Ta là đá nam châm, Charlie. Ta giữ sự cân bằng. Một khi sự cân bằng đó mất, chúng ta sẽ thua.” Vậy thì điều gì đã xảy ra cho bà bếp?



“ba chọi sáu,” Charlie thầm nghĩ. “Hoặc bảy nếu tính luôn Manfred.”



“Chuyện gì vậy, Charlie?” ông cậu Palton hỏi.



Charlie ngước lên “Cháu phải quay về học viện Bloor.”



“Không phải đêm nay, nhóc ạ,” ông nói. “Đèn sẽ bị cháy. Thậm chí họ còn không mở cửa nữa kìa.”



“Vậy thì ngày mai,” Charlie đáp. “Ngay khi có thể, nếu cần con sẽ đi bộ.”



“Không cần như vậy đâu” Felix nói. “anh sẽ cho em quá giang.”



Khi Charlie và ông cậu Palton sắp sửa đi, có một tiếng động kì cục bên dưới bàn và ông Gunn lại véo von, “Pusskins lại ăn củ cải nữa rồi.”



Charlie thở phào khi thấy Billy cũng cười. Nó rõ ràng là đã ở đúng chỗ - ít nhất là cho tới bây giờ.



Ngay khi Charlie bước vào căn nhà số 9 và tắt đèn ở phòng ngoài đi, bà nội Bone quát nó từ phòng khách. “Khỏi cần kể lể với tao là mày đã ở đâu mấy ngày nay. Tao đã biết cả rồi, thằng ngốc ạ”



“Thôi đi, Grizelda.” Palton làu bàu.



Ngoại Maisie tóm lấy nó, lôi nó vào nhà bếp được thắp sáng bởi những ngọn nến và khiến nó nghẹt thở trong vòng ôm của bà. Mẹ nó cũng ôm nó, và khi Charlie gần chết ngạt, nó mới được phép ngồi xuống bàn và uống một cốc ca cao.



Tất nhiên ngoại Maisie và mẹ nó đều muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho nó, nhưng ông cậu Palton nhắc đi nhắc lại là nó phải được đi ngủ trong khi nó đang kể cho họ nghe về lâu đài gương.



Mắt Charlie ríu lại khi nó leo lên giường ngủ. Cái thứ cuối cùng nó thấy được trước khi chìm sâu vào giấc ngủ là ánh sáng nhập nhòe của con bướm trắng khi nó đậu trên cái bàn cạnh giường.



Felix Gunn đã giữ đúng lời hứa. Nó xuất hiện trong một cái xe cà tàng kiểu Pháp nhỏ, ngay khi Charlie vừa ăn sáng xong.



“ai đó?” bà nội Bone hỏi khi Felix đưa Charlie tới học viện Bloor.



“Không phải chuyện của bà.” Ngoại Maisie đáp.



Nhưng, tất nhiên, bà nội Bone bị thôi thúc phải tìm ra. Liệu có phải sự xuất hiện của Felix đã lôi kéo sự chú ý của bà đến gia đình Gunn hay không Charlie chẳng bao giờ biết được. Có lẽ nhà Bloor chưa bao giờ thật sự xem nhà Gunn là đồng minh của Charlie cho tới khi anh của Fidelio xuất hiện trước cửa nhà số 9. Nhưng một khi nhà Bloor bắt đầu có hứng thú với gia đình Gunn, hậu quả có thể rất bi thảm.



Charlie có thể cảm nhận được bầu không khí căng thẳng ngay khi nó bước vào phòng học. Fidelio đưa ngón tay cái lên, nhưng mọi người nhìn nó một cách ngờ vực. Nó có cảm giác như thể trên đầu mình đang mọc ra hai cái sừng vậy. “Và mình chỉ mới đi vắng có hai ngày.” Nó tự nhủ.



Charlie cuối cùng cũng bắt kịp Fidelio trong giờ giải lao.



“anh không biết là ai đã loan tin đồn này ra, nhưng có một số câu chuyện kinh dị xung quanh em và Billy,” Fidelio bảo, khi chúng cùng nhau đi qua bãi cỏ. “Mọi người nói là em đã bị đuổi.”



“Tốt hơn em nên nói sự thật cho anh biết.”



Fidelio đề nghị chúng vừa đi vừa nói vì có những kẻ nghe lén ở khắp mọi nơi. Vài phút sau, Lysander nhập hội. Charlie chưa bao giờ thấy nó chán nản như vậy. nó cũng chính là người đã phát hiện ra Gabriel nằm bất tỉnh dưới cái áo choàng màu xanh da trời.



“anh đã cảm thấy rất lo lắng khi nó tiến đến phòng âm nhạc,” Lysander bảo Charlie. ‘đặc biệt khi Fido đã thấy Dorcas Loom mang cái áo choàng ấy lên tòa tháp. Ngay khi anh phát hiện ra Gabriel, anh đã báo với thầy Saltweather. Ông ấy đã gọi xe cứu thương.”



“bồ đã chọn đúng người đấy,” Fidelio nói một cách nghiêm trang. “Nếu bồ báo với Manfred, Gabriel tội nghiệp có lẽ chẳng bao giờ được đưa tới bệnh viện.”



Đó quả là một suy nghĩ hết sức sáng suốt.



“Hình như có động đất xảy ra vào đêm hôm đó,” Fidelio nói sau một hồi ngẫm nghĩ. “Một tiếng động ầm ầm dưới lòng đất nhưng sáng ra mọi việc trông rất bình thường.”



“dưới đất?” Charlie nhíu mày.



“Và bây giờ thì nhìn Tancred kìa.” Lysander chỉ tay qua bãi cỏ. “Tancred và cái thằng oắt con ấy.”



Charlie nhìn Tancred và Joshua đang cười cợt với Dorcas về mọi người. Áo của Joshua dính đầy những chiếc lá khô.



“Nhưng làm thế nào..?” Charlie hỏi.



“Từ tính!” Lysander rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.



“Joshua?” Charlie nói một cách ngờ vực.



“Em sẽ ngạc nhiên đấy,” Lysander nói dứt khoát “Mẹ của anh biết mọi thứ về nó. Người ta không cần phải khỏe mạnh, đẹp trai hay thậm chí khéo léo. Chỉ một số người có nó. Họ có thể xoay bạn vòng vòng quanh những ngón tay của họ.”



“Nhưng Tancred,” Charlie vẫn không tin. “anh ấy đang đứng về phía chúng ta. Làm sao mà anh ấy có thể trở mặt như thế? Ý em là nó đã không xảy ra với anh.”



“anh đã được chuẩn bị,” Lysander nói. “Nhưng từ tính là một tài phép đầy quyền năng. Em phải cảm nhận nó, Charlie. Khi Joshua mỉm cười với em, có sự lôi kéo nào đó khiến em muốn làm bạn với nó, bất kể bản thân em nghĩ như thế nào.”



“Em cũng cảm thấy có gì đó” Charlie thú nhận, “Nhưng em không để nó tóm được em.”



Lysander gật đầu một cách thông minh và chín chắn theo kiểu của nó. “Và Emma cũng như thế.”



“Emma mạnh hơn em tưởng,” Charlie nói. “Nhưng còn Tancred. Làm sao anh ấy có thể để bản thân mình bị cuốn đi như thế?”



Lysander thở dài. “Tancred là một đứa tốt nhưng nó hơi vênh váo. Joshua đã lợi dụng điều đó. Và bây giờ Tancred đã rơi vào tay nó.”



“Em không tin được” Charlie nói. Ở phía bên kia sân chơi, ai đó đang hét lên. Một trong những đứa con gái mới đến nhập học đã bị té sóng xoài vì một khúc gỗ lớn. Idith và Inez đang đứng cách đó vài mét, trông cực kì nham hiểm.



“Chính là chúng,” Lysander nói. “Chúng là những con quỷ, cả hai đứa.”



Olivia và Emma đã trông thấy tụi nó và đang chạy đến trong khi một đám mây đen đột ngột xuất hiện ngay trên đầu hai đứa nó. Khi chúng chạy tới, cơn mưa cũng đi theo chúng. Ba đứa con trai quay người lại và chạy đi núp dưới những gốc cây. Charlie thấy loáng thoáng khuôn mặt đang cười của Tancred còn Joshua tilpin thì cười nghiêng ngả.



“anh ấy cố ý làm như vậy,” Olivia gào lên khi nó thu mình lại để che mưa. “Mừng là bồ đã quay lại, Charlie. Có lẽ bồ có thể làm điều gì đó với Tancred.”



Charlie không biết mình có thể làm gì. Nó nhìn những khuôn mặt đang vây quanh nó. Thật là tốt khi biết rằng vẫn còn một vài đứa bạn mà mình có thể trông cậy được. Và rồi nó thấy tay của Emma. Các đầu ngón tay đều được băng lại. Chỉ có hai ngón tay cái là thoát được đòn tấn công sấm sét đó.



“Có thật là Tancred không vậy?” Charlie nhìn trừng trừng vào những cái băng.



“Mình không biết,” Emma nói “Một phút khi mình đang đứng cạnh đống gỗ, nói chuyện với Olivia và tiếp đến có một tiếng sấm vang dội, một ánh chớp nháng lên và mọi người vừa la hét vừa chạy vội vào trong. Mình cảm thấy giống như bị chích ở những đầu ngón tay…”



“Và mình nhìn xuống những ngón tay của bạn ấy,” Olivia tiếp, chỉ vào tay Emma, “Chúng đầy máu đỏ tươi.”



“bây giờ mình đỡ nhiều rồi.” Emma lắc lắc cái tay. “Và mình không thể chứng minh được đó là Tancred.”



“Đúng là anh ấy mà,” Olivia khăng khăng. “bồ cần phải làm gì đó, Charlie!”



“Mình?” Charlie trợn mắt trong khi mấy đứa khác đang chăm chăm nhìn nó.



“Em có thể bắt đầu bằng việc kể cho tụi anh biết em đã ở đâu.” Lysander nói.



“à được.”




Charlie mô tả vắn tắt hành trình của nó trên bãi biển đầy vỏ sò và cái lâu đài gương kì lạ ấy. Cả bọn há hốc miệng kinh hoàng khi nó kể tới đoạn Tantalus Ebony và Christopher Crowquill. Không đứa nào lên tiếng cho tới khi Fidelio phát ra một tiếng khụt khịt trong cổ họng và nói. “Thật thế à? Kinh khủng quá!”



Charlie không kể cho chúng nghe việc nó đã tin Albert Tuccini là cha nó. Sự thất vọng vẫn khiến nó đau khổ.



“Thật là kinh khủng,” Lysander lặp lại “Nhưng rất có thể tất cả chúng ta đều biết Albert Tuccini, đúng không? Ông ấy đã đến đây trình diễn màn độc tấu piano trong suốt học kì mùa xuân. Bạn không nhớ à?”



Tất cả lại tràn về như thác lũ. “Tất nhiên” Charlie nói một cách chậm rãi và buồn bã. “Và khuôn mặt đằng sau cửa sổ trong nhà của các bà cô, và cây đàn piano phía trên, sau trận hỏa hoạn đó. Đó luôn là Albert Tuccini không phải là một ai khác.”



“Những bà cô Yewbeam của em!” Lysander nhướng đôi mắt to màu nâu của nó lên trời. “Họ là những tội phạm, Charlie ạ. Họ đã lợi dụng người nhạc công tội nghiệp đó, giả vờ như là đang giúp ông ấy nhưng thật ra chỉ kiếm tiền từ những buổi hòa nhạc của ông ấy thôi. Thật là một đám làm ghê tởm.”



“anh có thể nhắc lại đó,” Charlie nhăn nhó nói.



Cơn mưa tai quái của Tancred dừng lại trước khi giờ giải lao kết thúc, và năm đứa tụi nó có thể chạy vào lớp mà không bị ướt thêm tí nào nữa.



Charlie quyết định là nó phải tìm bà bếp. Chỉ có bà ấy mới đủ thông minh để khuyên nó phải làm gì bây giờ.. Nhưng khi không thấy bà xuất hiện trong giờ ăn trưa, Charlie lại e ngại rằng bà bếp đã trở thành con mồi của những thế lực hung ác đang tung hoành trong học viện Bloor.



Giờ ăn trưa là cơ hội duy nhất mà Charlie có thể vào nhà bếp. Trong lúc Fidelio đang canh chừng, nó lượn lờ quanh quầy bán trước khi chui tọt vào cái nhà bếp ồn ào.



“Muốn gì vậy nhóc?”phụ tá của bà bếp hỏi, một người phụ nữ trẻ dáng người mảnh khảnh với khuôn mặt đỏ bừng và mái tóc bồng lên.



“Cháu đang kiếm bà bếp,” Charlie trả lời.



“bà ấy không được khỏe, cưng à. Bà ấy đi nằm rồi.”



“ồ,” Charlie không rõ mình phải làm gì bây giờ. Căn phòng bí mật của bà bếp nằm sau một cái buồng để chổi tầm thường. Không ai trong đám nhân viên biết rằng về sự tồn tại của nó. Có lẽ bà bếp đang ở trên căn gác lạnh lẽo nơi mà nhà Bloor nghĩ rằng bà ngủ ở đó. Charlie có một linh cảm rất mạnh rằng bà ấy đang ở trong căn phòng ấm cúng dưới lòng đất.



“Cám ơn cô,” Charlie nói với người phụ tá. Nó giả bộ như đi ra phía cửa nhưng khi người phụ tá vừa quay lưng đi, nó cúi người xuống và trườn nhanh như chớp đến một trong các quầy hàng. Nó phải đợi cho đến khi một người phụ tá khác nữa đi về phía bồn rửa chén, nó vụt chạy đến cái buồng để chổi, giật mạnh cánh cửa, trượt vào trong và sập mạnh cánh cửa lại.



Một cái chốt nhỏ ở phía sau cái buồng có vai trò như quả đấm cửa, và khi Charlie xoay nó, một cánh cửa khác mở ra một đường hầm tối. Charlie đóng cái cửa thứ hai lại. Bây giờ nó đang đứng trong bóng tối mịt mùng. Bà bếp thường có một ngọn đèn nhỏ chiếu sáng đường hầm. Nhưng hôm nay thì không, sự bứt rứt khó chịu của Charlie giờ đây đã biến thành linh tính về một điềm gở.



Nó mò mẫm đường đi dọc theo bức tường, vấp ngã dúi dụi, rồi lại lần mò từng bước một cho tới khi nó tìm thấy một cái buồng nhỏ. Nó mở cửa và bước vào căn phòng trước đây đã từng là một phòng khách ấm áp, còn bây giờ thật khó mà nhận ra nó. Vì một điều, sàn nhà dốc một cách đáng sợ. Tất cả các vật dụng rơi lăn lóc và nằm dồn một đống ở cuối phòng.



Ánh sáng lờ mờ từ cái đèn đã lật nhào soi cho Charlie thấy một thân hình nằm sóng sượt trên sàn nhà trước cái bếp màu đen đã lạnh ngắt. con chó May Phúc nằm bên cạnh.



“bà bếp!” Charlie kêu lên.



May Phúc chuyển cái nhìn đau khổ qua Charlie khi nó chạy tới chỗ họ.



Bà bếp trông thật dễ sợ. Mái tóc màu xám của bà giờ đây đã bạc trắng. Khuôn mặt lúc nào cũng hồng hào tươi vui của bà trắng bợt và bà có vẻ như đã gầy đi rất nhiều.



“Charlie,” bà rên rỉ, “Cháu đã quay trở lại.”



“Chuyện gì đã xảy ra vậy hả bà?” Charlie gào lên.



“Sự cân bằng đã mất. Ta đã nói với con rồi chứ? Chúng ta phải giữ sự cân bằng.”



“Nhưng con nghĩ là bà giữ được sự cân bằng ấy chứ. Bà từng nói bà là đá nam châm,” Charlie gần như phát điên.



“Ta không thể giữ nó mà không có con.” bà bếp nói, vẻ phật ý. “Cả con và Billy đều đi, và thằng bé với cái từ tính chết tiệt đó đã thống trị tất cả.”



“Xin lỗi,” Charlie lí nhí, “Con đưa Billy đến lâu đài gương.”



“Ta đã nghe cả rồi. Thiên thần Alice đã nói với ta tất cả. Về chuyện ông Crowquill tội nghiệp đó. Hãy cảnh giác, ta biết một số điều khả nghi về cái kẻ tên Tantalus Ebony đó. Hãy đỡ ta đứng dậy nào Charlie.”



Khi Charlie kéo bà bếp đứng dậy, bà nói “Ta cảm thấy quá tệ hại nên ta quyết định nghỉ ngơi một lát. Và cái bếp tắt ngấm khi mọi chuyện xảy ra.” – bà chỉ đống đồ vật lộn xộn ở cuối phòng – “Và ta không thể nào thắp lại được.”



Sàn nhà quá dốc đến độ Charlie còn thấy khó khi giữ thăng bằng chứ đừng nói đến chuyện đỡ bà bếp dậy. Trong khi bà níu chặt lấy mặt lò sưởi, nó nhanh chóng đem lại cho bà một cái ghế và nhét vài tờ báo dưới chân ghế. Khi cái ghế đã đứng vững, Charlie giúp bà bếp ngồi xuống.



Bà ngả lưng ra và vỗ vỗ vào ngực mình. “aaah! Tốt hơn rồi đấy.” May Phúc nhảy tới gần cái ghế. “Con chó già này đã ở cùng với ta.” Bà lắc lư cái đầu đầy nếp nhăn của con chó.



“Nó đã xảy ra khi nào?” Charlie hỏi.



“Đêm thứ hai. Sau khi họ tìm thấy Gabriel. Không thể nói ta ngạc nhiến đến cỡ nào khi cả hai đứa đều đi và đứa con trai nhà Torsson lại cư xử tệ hại như vậy.”



“Con nghĩ là con đã làm đúng khi đưa Billy đến lâu đài bằng gương.” Charlie nói.



“Đừng biện bạch, Charlie Bone,” bà bếp nói một cách giận dữ. “Con đã không nghĩ tới Billy. Con tự hão huyền rằng con sẽ tìm thấy cha con ở đó mà chẳng suy xét gì. Một lần nữa con lại bỏ đi mà không hề nghĩ đến những người khác.”



Charlie thở dài não nề. “Con thật sự muốn giúp Billy mà. Nó chỉ là,…,à, thật ra con cũng muốn tìm cha con nữa.”



Bà bếp nhìn nó đăm đăm trong một thoáng. “Ta không thể đổ tội cho con, Charlie à,” bà dịu giọng, “Ta rất tiếc là con đã không tìm thấy cha mình.”



Charlie tránh cái nhìn của bà và nhìn xuống chân. “Vậy bây giờ con có thể làm gì?”



“Thật tình là ta không biết. Chúng ta cần một đứa trẻ được thừa hưởng phép thuật khác. Một người mà có thể đặt tình bạn lên trước quyền lợi của mình. Một người mà sẽ cộng tác với chúng ta, Charlie. Và rồi, sự thăng bằng có thể được thiết lập lại.”



“Con nghĩ là con biết đứa trẻ đó,” Charlie nói, “Nhưng họ sẽ không thừa nhận nó đâu.”



“bất kể đứa trẻ ấy là ai, nó cũng cần một tài năng đặc biệt mạnh để xoay chuyển mọi thứ.” Bà bếp đứng dậy và vuốt lại cái tạp dề nhăn nheo. “Tốt hơn là con nên đi ngay Charlie. May Phúc và ta sẽ đi theo sau một nhịp.”



Khi Charlie cuối cùng cũng xoay sở để ra ngoài nhà bếp, nó thấy Fidelio đang ngồi một mình, trong khi người phụ tá có mái tóc bồng đang lau dọn những cái bàn trống. “Cháu từ đâu chui ra vậy?” cô ta quát Charlie.



“Nó đi tìm khăn lau,” Fidelio nói, nó đang ngồi trước cái bàn với một vũng đầy bánh vụn và nước cam phát gớm.



“Mấy đứa con trai này,” cô ta cằn nhằn, “Mấy đứa con gái của ta chẳng bao giờ làm như như vậy cả.”



“rất vui khi biết điều đó, thưa bà.” Fidelio nói “Chúc buổi trưa tốt lành nhé.” Và nó lôi Charlie lúc này đang lặng thinh ra khỏi quầy bán thức ăn tự chọn.



“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”giọng Fidelio the thé khi hai đứa đi dọc theo hành lang có những bức chân dung.



“bà bếp đang trong tình trạng rất tệ” Charlie nói buồn bã. “Và em phải tìm ra người có thể xoay chuyển tình thế.”



“Một nhiệm vụ bất khả thi,” Fidelio rên rỉ.



Chúng gần đi tới hội trường và thấy Manfred đang sải bước xuống cầu thang, Charlie thì thầm, “Có thể không như vậy đâu.”



***



Bài tập trong phòng nhà vua hôm ấy khó chịu hơn Charlie tưởng rất nhiều.



“Chào mừng đã quay trở lại, Bone.” Manfred nói khi Charlie bước vào.



Charlie ngồi bên cạnh Emma trong khi sáu khuôn mặt trông không lấy gì làm thân thiện lắm ngồi phía bên kia bàn. Tancred ngồi một mình, Charlie để ý thấy, vì thế vẫn còn hy vọng là nó chưa bị Joshua khống chế hoàn toàn. Bên cạnh Emma, Lysander vẫn gục đầu xuống. Nó cứ cắm mặt xuống bài tập, tránh không nhìn vào mắt ai.



Hai đứa sinh đôi bắt đầu gây sự: sách vở của Charlie bay vèo qua bàn và Emma bị một hộp đựng bút đánh trúng. Và khi sách bài tập của Lysander bị xé tung và quăng lên trần nhà thì nó mất bình tĩnh.



“Thôi đi, hai cái đứa rác rưởi kia!” nó hét toáng vào mặt hai đứa kia và ném sách vào người chúng.



Hai đứa sinh đôi cùng hụp xuống. Chúng không la hét, không cau có thậm chí cũng chẳng buồn nhíu mày. Bộ mặt chúng hoàn toàn trống rỗng, vô hồn. Manfred gào lên “Lần tới mày còn mở miệng ra nữa thì sẽ bị cấm túc đấy, Sage.”



Lysander phát ra một âm thanh khó hiểu rồi ngồi xuống.



Joshua mỉm cười với Tancred, và một vài phút sau, Charlie, Emma và Lysander đã là nạn nhân của một trận mưa như trút khiến đầu tóc, sách vở chúng ướt đẫm. Ngạc nhiên là Manfred lại ra tay cứu chúng nó.



“dừng lại đi, thằng kia.” Manfred hét bảo Tancred.



Bằng cách nào đó, Charlie sống sót qua buổi chiều và cả ngày hôm đó. Nhưng tối thứ năm nó nằm thao thức, rất lâu sau khi đèn tắt, cố gắng quyết định xem bước tiếp theo sẽ là gì.



Nó nghe tiếng dập cửa xe đánh sầm và rồi những bước chân dậm thình thịch trên khoảng sân bên dưới. Charlie chạy tới cửa sổ và nhìn xuống dưới. Manfred và Weedon đang lôi một thằng nhóc tóc trắng tiến đến cửa chính.



Billy đã bị phát hiện.



TÀI NĂNG CỦA OLIVIA



Felix Gunn bị đuổi khỏi học viện Bloor. Trước khi đi, nó còn kịp kể lại những chi tiết dữ dội trong cuộc vây bắt Billy cho Charlie và Fidelio nghe.



Vào giữa đêm một con sói – hay một thứ gì đó giống vậy – nhảy qua cửa sổ đang mở của một trong những căn phòng ngủ. Mấy đứa trẻ nhà Gunn chẳng phải dễ dàng bị đe dọa. Thật ra chúng là những tay can đảm và gan dạ. Chúng đã tấn công lại con quái vật với bất cứ thứ gì có trong tay. Đàn violon, giá để nhạc, dùi trống và thậm chí một cái tù và kiểu Pháp cũng được sử dụng để đánh lại con quái vật dễ sợ đang gầm gừ bò vào.



Nhưng trước khi ông bà Gunn kịp đến để cứu chúng, Billy vừa chạy vừa khóc rống lên. Nó chạy ra khỏi cửa trước – lao thẳng vào vòng tay của Manfred Bloor.



“run lẩy bẩy,” Fidelio nói “Như một con thỏ tội nghiệp vậy.”



Không bao lâu sau lời phát ngôn của Fidelio, Manfred đứng ở cửa ra vào của căn phòng để áo khoác màu xanh da trời, nơi mà Felix đang tường thuật lại câu chuyện dễ sợ của nó.



“Felix Gunn, mày đã bị đuổi.” Manfred nói lạnh lùng.



“Vì thế anh phải nói lời tạm biệt với hai đứa rồi.” Felix hơi khom người xuống, “Chúc may mắn nhé. Hai đứa sẽ cần đến nó đấy!” nó nhặt cây đàn ghita lên và đi qua hội trường tới chỗ của Weedon, người có nghĩa vụ mở khóa những cánh cửa nặng nề.



“Đừng có há hốc miệng ra như thế, hai đứa mày.’ Manfred nạt nộ ‘trở về lớp học đi”




Charlie và Fidelio tuân lệnh mà không thể kêu ca gì.



Billy không xuất hiện ở trường học. Nó chưa được đưa tới đây cho tới chiều thứ sáu khi mọi người hối hả đón những chuyến xe buýt trường. Charlie chợt nhìn lên khi đang băng qua cầu thang, và kìa nó đứng đó, một hình hài bé nhỏ đang đứng trong bóng tối nơi đầu cầu thang. Charlie giơ tay lên, nhưng trước khi Billy kịp đáp lại lời chào, Manfred đã xua Charlie ra khỏi cánh cổng.



***



Khi Charlie về nhà, bữa tiệc trà ngày thứ sáu đang diễn ra. Bà nội Bone đi vắng cho nên không khí có vẻ thoải mái hơn trước. Tuy nhiên, Charlie bắt gặp ông cậu Palton trông có vẻ trầm ngâm khi mọi người đang ăn kem. Lát sau ông giải thích rằng ông đã đi gặp thiên thần Alice. Khi bà ấy nghe kể về sự hy sinh dũng cảm của ông Crowquill, bà trở nên cực kỳ đau khổ. Bà đã đóng cửa tiệm, rao bán căn hộ của mình và vào cuối tuần này, chuẩn bị rời khỏi thành phố này mãi mãi.



“Nhưng bà ấy không thể đi được!” Charlie la lên, một thìa đầy kem dừng lại trong không khí, “bà ấy là người duy nhất biết làm cách nào để bảo vệ chúng ta.”



“Ta dám cá rằng mi biết mình đang nói gì nhưng chúng ta thì không biết,” ông cậu nói cộc lốc.



Charlie đã cố ý quên đi cái tuần kinh dị này trong khi thưởng thức bữa tiệc, nhưng giờ đây nó nhận ra rằng nó sẽ phải tự giải quyết lấy.



Khi ba người thân của Charlie nghe kể về cuộc vây bắt Billy, sự phản bội của Tancred, và căn phòng bị đảo lộn của bà bếp, họ cũng bỏ luôn cái buổi tiệc ấy, tuyên bố rằng họ đã ăn xong.



Ngoại Maisie thì nhất quyết bắt Charlie rời học viện ngay lập tức. Mẹ nó thì cứ rền rĩ “Không, không, không. Quá nhiều chuyện xảy ra.” Ông cậu Palton đứng dậy đi đi lại lại trong nhà bếp, tay trái đấm liên hồi vào lòng tay phải. Đột nhiên ông xoay lại và hỏi, “Cái gì khiến mi nghĩ là thiên thần Alice có thể giúp chúng ta?”



“bà ấy biết về tài phép của ai đó,” Charlie trả lời, “Người mà có thể xoay chuyển tình thế cho tụi con”



“ai?” ông cậu hỏi.



“Con nghĩ đó là Olivia, nhưng con không dám chắc.” Charlie đáp lại.



“Được rồi, nhóc ạ,” ông cậu ra lệnh. “Ngay ngày mai, điều đầu tiên, hoặc là mi sẽ vuột mất thiên thần Alice mãi mãi. Kế hoạch của mi là gì, nhóc?’



Charlie thú nhận là nó không có kế hoạch nào hết.



“Hừm.” ông cậu Palton lại đi đi lại lại. ông bắt đầu đưa ra những chỉ dẫn trong khi vẫn tiếp tục bước. “Đây là những gì mi phải làm, Charlie. Sáng ngày mai hãy đến gặp Emma tại hiệu sách. Rồi hai đứa cùng nhau đi thăm Olivia rồi rủ nó đến nhà của bà Alice, sát ngay bên nhà Vertigo, ta biết như vậy.”



“Vậy còn con Hạt Đậu thì sao?” Amy nói “Charlie luôn đưa nó đi dạo vào cuối tuần.”



“Chúng ta sẽ nhờ một đứa nhà Gunn làm việc này,” ông cậu Palton nói. “Ta sẽ gọi điện cho nhà Gunn khi ta đã sắp xếp mọi thứ với Julia – cô Ingledew. Mi đã rõ chưa nhóc?”



Charlie gật đầu rồi ngáp “Con sẽ sẵn sàng vào ngày mai.”



“Một con bướm!” ngoại Maisie la lên, phủi phủi vào vai của Charlie.



“KHÔNG” Charlie và ông cậu Palton cùng la lên.



“ái chà” ngoại Maisie bỏ tay xuống “Có gì mà phải ầm ĩ về con bướm nhỏ này.”



“Đó là cây đũa phép của con” Charlie thì thầm.



“Ta thật ngốc quá. Đáng lẽ ta phải đoán đuợc chứ.” Ngoại Maisie nói gắt gỏng, “Thế sao nó không giúp con giải quyết những cái mớ bòng bong đó đi hả, Charlie? Đó là chuyện những cây đũa phép cần phải làm mà đúng không?”



“Nó đã giúp con.” Charlie nhẹ nhàng nâng con bướm lên khỏi vai. “Nhưng không rõ ràng lắm. Nó phải lựa chọn.”



“Tha thứ cho ta vì đã hỏi một câu hỏi ngốc nghếch như thế.” Ngoại Maisie mỉm cười.



***



Vào sáng thứ bảy, Fidelio và con Hạt Đậu xuất hiện ở căn nhà số 9.



“anh không nghĩ đây là kế hoạch của ông cậu Palton,” Charlie nói khi Fidelio và con Hạt Đậu tiến thẳng vào bếp. Ngoại Maisie rất vui khi được gặp lại người bạn cũ của bà – con Hạt Đậu. Một bữa ăn với những mẩu thức ăn thừa nhanh chóng được đưa tới cho nó trong khi Charlie và Fidelio ăn trứng luộc.



Bà nội Bone xuống cầu thang ngay khi cả ba đứa chúng nó, tính luôn con chó, sắp sửa rời nhà. “Không phải con chó đó nữa chứ!” bà thét lên om sòm. Con Hạt Đậu nhanh chóng lao tới mắt cá chân của bà, và một cuộc xô đẩy hết sức lộn xộn xảy ra trước khi Charlie cố gắng lôi con chó qua cánh cửa trước.



Emma đang đợi Charlie tại tiệm sách, vì thế ít nhất một phần của kế hoạch đó đã thành công. Nhưng liệu Fidelio và con Hạt Đậu có muốn cùng tụi nó đi đến nhà Olivia không thì Charlie không chắc.



“anh sẽ trông chừng cho em,” Fidelio lên tiếng trước khi Charlie kịp nói ra nỗi lo lắng của nó. “Và Hạt Đậu sẽ đánh hơi ra bất cứ con quái vật lông lá làm gián điệp nào.”



Khi ba đứa trẻ và một con chó đến nhà Olivia, bà Vertigo có vẻ lo lắng. “Chúng ta chưa bao giờ có một con thú lớn cỡ đó trong nhà cả,” bà nói.



“Nó không gây hại đâu mà mẹ,” tiếng Olivia gọi từ trên chốc cầu thang. “Cứ để nó vào.”



“Nếu Liv đã nói vậy thì nào xin mời các cháu.” Bà Vertigo đứng tránh sang một bên cho ba đứa vào nhà và bước lên cầu thang dẫn tới phòng của Olivia. Nó khá là chật chội. Giường, sàn nhà và những cái ghế bị phủ đầy với những quần áo, mũ, tất, dây chuỗi và những bộ tóc giả đủ màu sắc.



“Mình đã có đủ những thứ rác rưởi này,” Olivia nói, ‘mình chuẩn bị vứt chúng đi đây.”




“bồ không thể làm thế được,” Charlie nói khi đang trố mắt nhìn hàng đống quần áo đủ màu sắc. “bồ sẽ không còn là bồ nếu không có những thứ … thứ…”



“Thứ cải trang?” Fidelio nhắc tuồng.



“Mình không còn muốn cải trang nữa,” Olivia nói, “Mình không phải là một diễn viên.”



“Không đúng! Bồ là một diễn viên thứ thiệt.” Emma khẳng định.



Olivia nhún vai, “Mà sao mấy bồ lại ở đây?”



Bốn vị khách của nó yên vị trên giường và Charlie đang giảng giải về tình cảnh trong học viện Bloor và lí do tại sao chúng cần phải biết Olivia có phải là người thừa kế phép thuật hay không.



Olivia ngồi trên ghế và bình thản lắng nghe Charlie nói. Chỉ khi nó miêu tả về hoàn cảnh tuyệt vọng của Billy Raven, nó mới thấy mặt con nhỏ dịu đi một chút và nó lại cảm thấy một tia hy vọng lóe lên.



“Tại sao bồ không đến gặp thiên thần Alice trước khi bà ấy rời khỏi thành phố?” Charlie thúc giục, “bà ấy rất đau khổ vì cái chết của ông Charlieowquill. Hãy thử tưởng tượng bà ấy đã giúp đỡ ông ấy vượt qua quãng thời gian khủng khiếp khi ông ấy còn trong ngục và bây giờ ông ấy lại ra đi như thế.”



“Chỉ đến gặp bà ấy thôi thì đâu có tác hại gì.” Emma nói.



Olivia nhíu mày. Nó đứng dậy và nhìn qua cửa sổ “Mình không thể trèo qua được bức tường đó,” nó nói.



Trước khi nó kịp có thời gian để đổi ý, mấy đứa kia dỗ dành nó đi xuống cầu thang và ra ngoài vườn. Olivia và Charlie trèo lên bức tường trong khi Emma, Fidelio và con Hạt Đậu chờ ở trong vườn nhà Vertigo.



Charlie gõ cửa sau của nhà Alice nhưng không có tiếng trả lời. Nó nhìn qua cửa sổ; tất cả những căn phòng ở tầng dưới dường như đã bỏ trống. Olivia vòng lên phía cửa trước và kéo dây chuông. Không ai mở cửa. Nó nhìn thấy bảng hiệu “NHÀ BÁN” trước cổng và chạy lại phía Charlie.



“bà ấy đã đi rồi!” Olivia kêu lên. “bây giờ thì mình sẽ chẳng bao giờ biết được nữa.”



“Khoan đã nào, Liv, bà ấy không thể đi ngay được.” Charlie lướt nhanh qua cửa sổ bên hông nhà. “Mình có thế thấy hai valy hành lý trong phòng khách. Và một cái áo mưa trên thành ghế.”



“Thế nên bà ấy có thể đang ở đâu đó trong thành phố, nhưng mà ở đâu?” Olivia trông có vẻ không còn hy vọng tìm thấy thiên thần Alice nữa. Nó chạy lại chỗ bờ tường và hai đứa leo qua phía bên kia vườn.



“Thế nào?” Fidelio hỏi trong khi con Hạt Đậu thì sủa ăng ẳng.



“Không có ở đó,” Charlie nói.



“Chúng ta sẽ tìm bà ấy như thế nào đây?” Olivia vung tay một cách sốt ruột.



“Cửa tiệm đã đóng cho nên bà ấy sẽ không có ở đó,” Charlie nói.



“Chúng ta có thể tìm kiếm trong thành phố.” Fidelio nói.



“Nó quá rộng lớn,” Charlie phản đối, “Chúng ta có thể phải mất nhiều ngày để tìm kiếm và có thể chẳng bao giờ tìm thấy bà ấy.”



“Mình nghĩ là mình có thể giúp được,” Emma nói lặng lẽ, “Thiên thần Alice trông như thế nào?”



Cả bọn đều trợn mắt nhìn Emma và Olivia nói, “bà ấy có mái tóc trắng và một khuôn mặt xinh đẹp.”



Charlie lại đưa ra một phán đoán mang tính linh cảm, “bà ấy có thể đang cầm một bó hoa, những bông hoa trắng.”



“Mình có thể hình dung được rồi,” Emma nói. “Nào, bây giờ thì mấy bồ cảm phiền vào trong nhà hết đi. Bởi vì mình không thích làm những chuyện mình sắp làm trước mặt một người nào.” Nó nhìn vào những ngón tay đã bị băng lại. “Mình nghĩ Joshua đã sai khiến TanCharlieed làm bị thương mấy ngón tay của mình là có mục đích.”



“Để làm cho bồ không thể bay được.” Olivia trông có vẻ quan tâm. “Đừng cố gắng quá nhé Emma. Nếu đau quá thì thôi đừng làm nữa. bồ có thể rớt xuống đấy.”



Emma xua tụi nó đi. “Sẽ không sao đâu mà.”



Khi chúng đã lần lượt kéo vào trong nhà và đứng bên cạnh những ô cửa sổ kiểu Pháp, cố gắng không nhìn vào trong vườn nhưng thật khó mà ngăn tụi nó lâu lâu lại lé mắt nhìn vào. Emma đang núp sau một bụi cây, và chỉ đến khi một con chim nhỏ màu nâu bay vụt lên cây táo, tụi nó mới biết là Emma đã đi làm nhiệm vụ rồi. Chúng nhìn con chim xoải cánh bay vào bầu trời và nói, “bạn ấy kìa. Nếu có ai đó có thể tìm thấy thiên thần Alice thì người đó chỉ có thể là Emma Tolly.”



Hai đầu cánh bị đau khiến Emma gặp rắc rối khi bắt đầu bay. Nó chao đảo trên đường Filbert nhưng cuối cùng nó cũng lấy lại thăng bằng và bay vút vào một đám mây trên nóc nhà thờ lớn. Lợi dụng thời tiết mùa thu ấm áp, nó thả mình trôi qua thành phố. Con mắt chim sắc bén của nó thấy rõ từng con người đang vội vã hối hả đi bên dưới nó. Nó thậm chí còn bay qua học viện Bloor và tòa lâu đài đổ nát. Nó thấy Billy Raven đang đi dạo qua sân chơi với con May Phúc bám theo sát gót. Nó những muốn dừng lại và nói chuyện với thằng bé nhưng thời gian bây giờ rất quý giá.



Con chim Emma sắp sửa bay qua đống hoang tàn đổ nát thì nó thấy một thứ gì đó khiến nó mất tập trung và rơi thẳng xuống mặt đất.



Sâu trong đống hoang tàn ấy, những bức tường mọc đầy những cây trường xuân cao lớn bao quanh một khu vườn xanh mát và bí mật. Ở giữa vườn sừng sững một cái cây lá đỏ. Một âm thanh phát ra từ cái cây, một loại nhạc mà Emma chưa từng nghe bao giờ. Sáng bừng lên giữa những bức tường là một con ngựa trắng đang gặm cỏ dưới gốc cây. Emma không chút nghi ngờ rằng cái cây và con ngựa thuộc về nhau và chúng là một phần của cái thế giới hoàn toàn khác với thế giới của nó.



Con ngựa ngẩng đầu lên và trông thấy Emma. “Con ta,” nó nói, “Đứa con của ta.”



“Tôi đang bay,”Emma nói.



“Cầu chúc cho những điều may mắn sẽ bay cùng với con,” con ngựa nói. Một niềm hy vọng trào dâng đưa Emma bay trở lại bầu trời. Đôi cánh của nó không còn đau nữa và nó cảm thấy hết sức hạnh phúc. Với nguồn năng lượng mới nó tiếp tục sục sạo thành phố cho tới khi nó đến một công viên ở cuối đường Filbert. Bên dưới nó là một người phụ nữ tóc trắng ngồi một mình trên băng ghế. Đầu của bà cúi xuống một bó hoa trắng trong vạt áo.



Emma kêu một tiếng chói tai và người phụ nữ nhìn lên. Bà có một khuôn mặt thật đẹp nhưng buồn. Emma vòng trở lại và bay về phía khu vườn nhà Olivia. Ba đứa kia vẫn tụ tập quanh cửa sổ khi nó hấp tấp chạy lại trong hình dạng người và hét lên, “Mình đã tìm được bà ấy. Mình đã tìm được rồi. Bà ấy đang ở trong công viên.”



Bốn đứa trẻ và một con chó chạy nước rút về phía công viên, băng qua cánh cổng, xuyên qua bãi cỏ tới chỗ băng ghế nơi thiên thần Alice đang ngồi một mình. Khi bà thấy Olivia, khuôn mặt buồn của bà ấy nở một nụ cười. “Olivia, con đến đây để nói lời từ biệt à?’



“Con đến để nói lời xin lỗi” Olivia thốt lên. “Con xin lỗi vì mọi thứ, vì đã không tin bà, vì một người bạn đã ra đi của bà.”



Bà đưa bó hoa lên mặt và hít thở hương thơm của nó. “Ta muốn đặt bó hoa này lên mộ của ông ấy, nhưng tất nhiên ông ấy đâu có nấm mộ nào. Tội nghiệp Christopher.”



“Con xin lỗi, thành thật xin lỗi,” Olivia thổn thức, gần như không kìm chế được nỗi ân hận.



“dù sao con đã đến gặp ta. Chưa hẳn là đã quá muộn.” Alice đứng dậy. “Và con, Charlie, là con đã mang nó đến đây à?”



“Tất cả chúng con,” Charlie nói. “bạn của con Fidelio.” - Fidelio cúi người xuống – “Nhưng công lớn nhất là thuộc về Emma. Bạn ấy đã tìm ra bà.”



“À!” Alice đưa mắt nhìn Emma với vẻ hiểu biết, rồi bà cẩn thận đặt bó hoa lên cái ghế dài và quay về phía Olivia. “Con đã sẵn sàng chấp nhận tài phép thừa kế chưa?”



“Con cho là con đã sẵn sàng rồi,” Olivia đáp lại.



“Và ai là người con muốn cho họ thấy những gì con có thể làm?” Alice hỏi.



“Những người bạn của con, tất nhiên.” Olivia trả lời.



“Không một ai khác nữa chứ?” Alice nói một cách trang nghiêm “Con có thể chọn người để thể hiện tài phép của con.”



“Thật chứ?” khuôn mặt hớn hở của Olivia đã trở nên nghiêm túc lại. Nó nhìn người chạy xe đạp đang chạy vèo vèo trên con đường, hai đứa trẻ đang chơi bóng đá, và một người phụ nữ đang dắt chó đi dạo. “Ngay bây giờ con chỉ muốn bạn con và bà là thấy được nhưng gì con có thể làm - ồ, cả con Hạt Đậu nữa, tất nhiên.”



“rất tốt! hãy nghĩ về một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Hãy tập trung nghĩ. Hãy hình dung nó trong tâm trí con, mọi mặt!”



“Khoan đã, con sẽ không hóa thành cái mà con đang nghĩ chứ?” Olivia hỏi.



“Không,” bà Alice trả lời.



“Vâng. Con tiếp tục đây.” Sự tập trung khiến trán nó nhăn lại, và rồi một ánh nhìn tinh quái quen thuộc lại lóe lên trong đôi mắt của nó. Mọi người đều đứng yên, ngay cả con Hạt Đậu cũng vậy, nó cỏ vẻ hiểu được tình huống nghiêm trọng của vấn đề. Sau một phút im lặng hoàn toàn, Alice nói, “bây giờ thì hãy quay lại nhìn xem, Olivia.”



Olivia quay lại nhìn, mọi người cũng nhìn theo. Ở chính giữa công viên là một đám mây u ám khổng lồ. Dần dần nó chuyển thành một hình dạng run rẩy chả ra hình thù gì.



“Không,” bà Alice nói. “Con chưa làm được đâu, Olivia. Hãy thư giãn nào! Con đã quá căng thẳng rồi.”



Olivia mỉm cười và khép hờ mắt lại. Cái hình thù ấy bắt đầu đặc lại và biến thành một thực thể thật khủng khiếp.



Fidelio hét lên trước, rồi con Hạt Đậu cũng tru lên kinh hoàng một cách bản năng. Miệng của Charlie trễ ra nhưng nó quá sợ đến nỗi không phát ra được âm thanh nào. Nó biết là những gì nó thấy không có thực nhưng cái vật ấy trông thực quá, cái mùi cũng thực và âm thanh cũng thực. Một con khủng long khổng lồ, một con khủng long bạo chúa đứng cách tụi nó vài bước chân. Cái miệng vĩ đại của nó ngoác ra, hơi thở thì khủng khiếp, và tiếng gầm của nó có thể làm đông máu bất cứ ai, một âm thanh mà chỉ có thể nghe thấy trong những cơn ác mộng.



Vẫn tru tréo, con Hạt Đậu chạy trước. Nó vọt tới cánh cổng công viên với ba đứa trẻ đang gào thét hãi hùng đằng sau nó. Khi người chạy xe đạp thấy tụi nó, ông ta hét lên “Cái …cái …?” và ngã lăn xuống xe. Hai đứa bé nhặt lấy quả bóng và vừa chạy về phía những cái cây vừa la hét “Có ma! Có ma!” con chó nhỏ nhảy vào thùng rác và chủ nhân của nó thì tưởng là chúng bị điên.



“dừng lại đi mấy đứa!” bà Alice gọi, “Nó không thể làm hại các con được.”



Từ một khoảng cách an toàn, chúng quay lại và nhìn cái sinh vật khủng khiếp ấy. Hàng tràng cười lan khắp công viên khi Olivia nghiêng ngả cười không ngớt. Alice đặt tay lên vai nó và nói gì đó, nó gật đầu. Nó thôi cười và quay lại. Sau lưng nó, cái hình ảnh kinh dị kia mất dần hình dạng. Dần dần nó tan thành một đám những hạt nước li ti lơ lửng trong không khí như một trận mưa lá chết.



Olivia vỗ tay và nhảy một điệu. Trước khi bạn bè của nó kịp hoàn hồn sau cái ảo ảnh thứ nhất, một cái khác lại hiện ra. Một bữa tiệc được phục vụ trong những cái dĩa bạc đặt trên một cái bàn dài. Và còn có Người Làm Mũ Điên, Thỏ Hành Quân và Chuột Sóc, nửa thân người trong một cái ấm trà.



Tiếp đến là một dải cầu vồng vắt ngang qua công viên và khi nó tan đi, một hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng chói phi nước đại qua bãi cỏ trên một con ngựa lớn với dây cương bằng da và một cái áo choàng đỏ thêu chỉ vàng. Charlie có thể nghe thấy tiếng thình thịch của vó ngựa, tiếng sột soạt của da và tiếng kêu lanh canh của đinh thúc ngựa.



Olivia nhảy múa quanh bà Alice với cái đầu ngửa ra sau và đôi cánh tay vung vẩy mở rộng. “Hãy nhìn những gì con có thể làm này,” nó lại la lên “Nhìn xem! Nhìn xem! Nhìn xem!”



“rất ấn tượng,” Fidelio thì thầm với Charlie. “Mình không biết con nhỏ đó thế nào nhưng mình thấy mệt quá.”



Con Hạt Đậu cố gắng chui xuống đất vừa rên rỉ vừa bịt mắt bằng cái chân to tướng của mình.



Alice lại nói với Olivia và khi hiệp sĩ và con ngựa của ông ta rời sân khấu thì không có cái gì hiện ra nữa.



Olivia nằm vật xuống thảm cỏ, thở phào, “phù! Mình đã hơi quá trớn phải không?”



Alice bật cười với nó. Những đứa khác thì thận trọng tiến lại gần nhưng con Hạt Đậu vẫn ở nguyên chỗ cũ, chân nó vẫn bịt mắt.



Khi cả bọn đã ngồi thoải mái trên băng ghế và cố gắng kéo mình quay trở lại thực tại. Olivia hỏi Alice tại sao nó phải tốn một thời gian lâu như thế để phát hiện ra khả năng của mình. “Và làm sao bà có thể biết được điều đó? Và tại sao lại là táo?”



Alice chăm chú nhìn những bông hoa trong vạt áo. “Thật là khó để diễn tả thành lời,” bà ấy nói “Ta luôn biết rằng một ngày nào đó ta sẽ gặp một vài người cần đến sự trợ giúp của ta để khám phá ra chính bản thân của họ. Đó là một khả năng kì lạ, con có thể nghĩ như thế” bà nhìn Charlie đang ngồi bên cạnh mình.



Charlie nói, “Tất cả những tài phép được thừa kế đều kì lạ.”



Alice mỉm cười với nó. “Đúng vậy. Nói ngắn gọn, ta được nhờ đi trang trí căn phòng cho một đứa bé trong ngày lễ rửa tội.” Alice liếc nhìn Olivia. “Mẹ của đứa bé rất hài lòng với những bông hoa của ta cho nên bà ấy mời ta đến tham dự bữa tiệc. Ta không ngờ rằng nó sẽ là một trong những ngày quan trọng nhất của đời ta. Họ mang đến một đứa bé và mọi người vây quanh nó, thủ thỉ, cười nói với nó, chính là Olivia.”



“Con có phải là một đứa bé xinh đẹp không?” Olivia hỏi.



“Thành thật mà nói, con hơi mũm mĩm một chút, nhưng mà” – bà nghiêm nghị nhìn Fidelio và Charlie đang cố nín cười – “Ngay khi ta thấy con, Olivia, tim ta đã lỗi nhịp. Ta tự hỏi điều gì đang xảy ra cho ta. Sau đó, họ đặt con trong một cái nôi xinh xắn, và khi ta đã quan sát con kĩ hơn, ta biết con là một đứa trẻ đặc biệt. Ta cũng biết rằng cần phải tốn tới 12 năm để con có thể chấp nhận tài phép của mình.”



“Làm sao mà bà biết được ạ?” Olivia sốt sắng hỏi.



“Điều này nghe có vẻ rất kì dị.” bà Alice nói.



“Chúng con không quan tâm,” Charlie nói “Mọi thứ đều đã rất kì dị rồi.’



“Có một cây táo ở cuối vườn nhà ta. Nó là của ta bởi vì nó mọc lên ở đó, nhưng nó cũng là của con, Olivia, bởi vì một cành cây đã nghiêng sang vườn nhà con. Có 13 quả trên cành táo ngày đó và …và…” bà Alice ngừng lại, và rồi bằng một giọng thì thầm đến mức mấy đứa kia phải nhoài sát lại để nghe, bà tiếp tục kể. “ một giọng nói trong đầu ta bảo rằng, “Vào năm thứ 13 của cây táo, cầu chúc cho nó có thể chấp nhận tài phép của mình một cách tự nhiên.”



“ồ!” Olivia reo lên, mọi ý nghĩ chợt sáng tỏ trong đầu nó. “Con được 12 tuổi vào đầu học kỳ này. Cho nên hiện giờ con đang ở tuổi thứ 13. Và những quả táo … chúng không thể bị gọt vỏ cho tới khi nào con chịu tin và chấp nhận.”



“Đúng thế đấy, Olivia.” Bà Alice nói. “Ta hi vọng là con sẽ vui.”



“Vâng, tất nhiên, con cảm thấy rất vui. Nhưng con cảm thấy hơi lạc lõng một chút vì con chưa bao giờ là một người trong số họ cả.” nó nhăn nhó một cách ân hận với Charlie. “Và bây giờ thì con chẳng biết cần phải làm gì với cái tài năng kì lạ này.”



“Ta chắc là bạn con sẽ giúp con tìm ra.” Alice nhìn Charlie.



Fidelio chợt lên tiếng hỏi, “bà là một phù thủy phải không bà Alice?”



Alice cười. “Ta cho là như thế. Nhưng ta là một phù thủy Thiện.” bà ngừng lại và nghiêm giọng “Ta không muốn đánh động các con nhưng các con cần được cảnh báo trước – khi một phù thủy Thiện xuất hiện thì cũng có một thế lực đen tối khác tồn tại.”



“Người đó là ai?” Charlie hỏi.



“Ta e là ta không biết,” Alice đứng dậy. “Và bây giờ ta phải đi thôi.” Bà nói một cách dứt khoát. “Ta còn có việc cần phải làm”



“bà thật sự phải đi à?” Olivia kêu lên.



“Ta đã hoàn thành sứ mệnh của ta – ít nhất là một trong số đó.” Alice phác một cử chỉ tỏ ý hài lòng. “bây giờ con phải tự quyết định lấy mọi việc, Olivia. Nhưng ta tin con sẽ thích ứng nhanh thôi.”



Olivia nhảy lên và ôm chầm lấy bà. “Cám ơn bà,” nó nói, “Cám ơn bà vì đã làm thiên thần hộ mệnh của con.”



“Ta cũng rất vui vì điều đó.” Alice nói.



Emma hỏi, “Trước khi đi bà có thể nói cho tụi con biết, liệu cái bà phù thủy kia, cái bà phù thủy hắc ám ấy, có theo bà không?”



Alice hơi nhún vai. “Ta không có cách nào biết được điều đó. Còn bây giờ, xin tạm biệt, những thiên thần bé nhỏ của ta.”



Chúng đứng trông theo bóng dáng thiên thần Alice đi xa dần rồi biến mất qua cánh cổng công viên. Bà ấy không quay lại, và sự biến mất của bà cứ như là tan biến vào không khí, như thể bà ấy chưa hề ở đó vậy. Và những bông hoa vẫn được đặt ở nơi bà đã để nó lại.



“Mình sẽ đem về tặng mẹ,” Olivia nói, “bà ấy thích hoa trắng lắm.”



Tâm trí của Charlie vừa quay lại với những vấn đề ở học viện Bloor và nó bắt đầu lên kế hoạch cho Olivia. “Mình nghĩ bồ nên giữ bí mật về tài năng của bồ,” nó bảo Olivia. “Mọi người có đồng ý không?”



Fidelio nói, “Như kiểu một vũ khí bí mật hả?.”



“ý bồ là không một ai được biết trừ chúng ta?” Emma hỏi.



“Không một ai,” Charlie nói.



“phù hợp với mình đấy,” Olivia nói, “Nhưng mình có thể giúp được gì đây?”



“bồ có bao giờ ở trong phòng nhà vua chưa?” Charlie hỏi.



“rất nhiều lần, khi mình bị cấm túc ấy.” Olivia trả lời.



“Tốt. Việc đầu tiên phải làm là khiến cho Joshua trông gớm ghiếc, thật gớm ghiếc,” Charlie tiếp tục nói, thích thú với cái viễn cảnh mà nó sắp dựng lên. “Đến nỗi Tancred phải thấy ghê tởm với nó. Và những đứa khác cũng có thể cảm thấy ghê tởm như thế.”



“Mình có ý này,” Fidelio nói, “Tất cả chúng ta đều biết Tancred sợ gì nhất.”



“Nhện,” Emma tiếp lời.



“Nhện,” Charlie đồng ý. “Điều thứ hai là phải khiến cho lão Ezekiel Bloor một phen vỡ mật. Mình sẽ có việc phải làm.”



“Ồ, đúng thế!” Fidelio reo lên, đấm tay vào không khí. “điều này sẽ rất tuyệt, rất, rất, rất tuyệt.”