Chẩm Sơn Hà

Chương 3: ỐM NẶNG




Chuyển ngữ: Bis

Beta: Mây

*

Tuyết rơi càng lúc càng dày, nơi nơi được bao phủ bởi lớp tuyết trắng xóa. Khoảng đất trống trước nhà bị tuyết lấp đầy, mặt đất phẳng lạnh như băng. Từng bông tuyết rơi xuống những cây đào yếu ớt và cành cây gần như bị tuyết dập gãy. Nhĩ Đông quỳ trên mặt đất, mặt tái đi vì lạnh, trên vai và đỉnh đầu đều phủ một lớp tuyết. Một lúc sau, cánh cửa tre bị đẩy ra, người đàn ông trong bộ y phục màu lục lam với dáng người hiên ngang tựa cây trúc đứng trên bậc thang, đăm đăm nhìn Nhĩ Đông.

Nhĩ Đông vẫn cúi đầu, lông mày cũng lấm tấm những bông tuyết, không chịu ngước mắt nhìn sư phụ.

"Ngươi đã biết sai chưa?" Giọng người kia vẫn đều đều như trước.

Nhĩ Đông xót xa nhếch môi, chỉ vì nhắc đến Tà Khê mà y lại bị phạt quỳ dưới mưa tuyết.

"Chuyện gì con làm cũng là sai sao ạ?" Nhĩ Đông ngây ngốc hỏi.

Thật ra, đáng lẽ y phải tự hiểu, rằng dù điều y làm là sai hay đúng, thì trong mắt sư phụ chúng đều giống nhau mà thôi. Bản thân y vốn chưa từng lọt vào mắt hắn.

Hắn rũ mắt nhìn Nhĩ Đông.

Vì đã ấm ứt từ lâu, Nhĩ Đông không kìm được thốt lên: "Tại sao người có thể mỉm cười với người khác, nhưng lại lạnh nhạt với chỉ một mình con ạ? Tại sao người cứ coi thường con thế ạ?"

"Rõ ràng con mới là người vẫn luôn ở cạnh người!"

Với thiếu nữ bán trà hay ông chủ cửa hàng, sư phụ đều đối xử rất tử tế. Nhưng mỗi khi đối diện với y, thái độ của hắn lại khác hoàn toàn.

Y không có cha cũng không có mẹ, không có người thân hay bạn bè. Và kể từ khi biết nhớ, y chỉ biết mỗi sư phụ mà thôi. Sư phụ là tất cả của y.

Nhưng, đáp lại câu hỏi của y chỉ là sự lặng thinh.

Trong lòng Nhĩ Đông như vừa đổ một vại dấm chua, chỉ toàn chua xót. Y mím chặt miệng để ngăn những câu từ không trào dâng khỏi cuống họng. Tuy vậy, y vẫn không thể kiểm soát được thứ cảm xúc đang dâng trào. Đối diện với khuôn mặt vô cảm của sư phụ, đôi môi Nhĩ Đông run rẩy, rồi y nghe thấy thanh âm mình điên cuồng gào thét.

"Nếu như người ghét con, vậy tại sao lại nhận con làm đồ đệ? Nếu con không phải học trò của người, thì cũng chẳng bị giam cùng người trong cái sân này rồi!"

Suy nghĩ của Nhĩ Đông rối tung như mớ bòng bong, tròng mắt y đỏ ngầu, rồi y nhìn thẳng vào Chẩm Hàn Sơn.

"Khi nào ngộ nhận ra thì hẵng vào." Sư phụ quay người bước vào nhà.

Cửa tre kêu "kẽo kẹt" rồi từ từ khép lại.

Tuyết vẫn rơi và đầu gối của Nhĩ Đông bị vùi trong lớp tuyết dày. Thân hình gầy yếu của chàng thanh niên như cây đào trước gió rét, chỉ cần một cơn gió thổi thoáng qua là có thể bị đổ gãy. Cơ thể của Nhĩ Đông tê buốt, trong hốc mắt còn chứa những giọt nước mắt nóng hổi.

Y không hiểu, thực sự không thể hiểu nổi. Từ trước đến nay, Nhĩ Đông luôn nghĩ sư phụ là người lạnh lùng nên mới ít khi để ý đến y, nhưng vẫn sẽ có lúc người mỉm cười và dịu dàng lắng nghe y, nhưng chưa lần nào y được trải nghiệm cảm giác đó. Suốt bao năm như vậy, y chỉ có thể ngắm nhìn bóng lưng sư phụ đang ngồi đọc sách hay quan sát gò má của sư phụ khi cửa sổ đang mở.

Hai người họ sống chung dưới một mái nhà, nhưng đôi lúc, mối quan hệ lại cứ như người dưng nước lã.

Đôi con ngươi của Nhĩ Đông mờ đi vì nước mắt. Khung cảnh trước mắt y ngày càng mở ảo như thể bị bao phủ bởi một lớp sương mù. Tầm mắt y đột ngột tối sầm lại, cả người chìm vào bóng đêm vô tận.

Trong đêm tối, Nhĩ Đông mê man bước đi, bốn phía tối tăm không một tia sáng và y không biết phải đi đâu về đâu. Bỗng nhiên, một chút ánh sao lơ lửng giữa không trung, chúng cứ lảng vảng như thể muốn dẫn đường cho Nhĩ Đông đến một nơi nào đó. Y vội vàng đuổi theo rồi mau chóng tìm thấy lối ra. Một tia sáng chợt lóe lên, Nhĩ Đông lấy tay áo che mắt. Khi tầm nhìn trở lại bình thường, Nhĩ Đông ngửi thấy mùi hoa đào nồng nặc, y nhìn chung quanh và thấy một rừng đào. Những cây đào ở nơi đây khác hẳn với những cây khẳng khiu trong sân sau, cây nào cây nấy lá xum xuê, hoa nở đầy cành.

"Này, ngẩng đầu lên." Một giọng nói vang lên trên đỉnh đầu y.

Nhĩ Đông nghe thấy tiếng gọi liền ngẩng đầu lên, nhưng chỉ thấy mấy cánh hoa đào chậm rãi rơi xuống.

"Ở đây." Âm thanh bỗng vọng lên sau lưng y.

Vai Nhĩ Đông bị vỗ một cái. Y quay đầu, nhìn thấy một người sở hữu mái tóc đen dày, cười như không cười nhìn mình. Đôi mắt của người đó có màu đỏ sẫm, nhưng Nhĩ Đông không cảm thấy sợ, có lẽ vì vẻ ngoài tuyệt đẹp của gã đã khiến cho hơi thở gấp gáp và hung dữ (*) bị suy yếu.

(*) 凌厉: tính từ miêu tả cho hành động nhanh chóng, gấp gáp mau lẹ và mạnh mẽ, dữ tợn.

"Chờ ngươi lâu lắm đó," Gã tiến lại gần, chóp mũi gần như chạm vào cổ của Nhĩ Đông. Như thể vừa ngửi được một bình rượu ngon, gã thở dài, "Mùi vị quen thuộc đây rồi."

Trong đầu Nhĩ Đông lóe lên một ý nghĩ - hình như kẻ này sắp cắn vào cổ mình. Theo bản năng, Nhĩ Đông đẩy gã ra và tiếp tục chạy về phía trước, đến khi thở không ra hơi, y mới dừng lại thở dốc.

"Gặp lại bạn cũ vậy mà ngươi đối xử với ta như thế à?" Kẻ đó nhảy xuống từ cây đào, mái tóc đen nhánh xõa xuống ngực càng làm tăng vẻ mỹ lệ của gã.

Tại sao có thể nhanh đến vậy?

Nhĩ Đông không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào mà chỉ có thể mở to mắt nhìn gã và đến khi gã đến gần thì sợ hãi ngồi sụp trên nền đất.

Kẻ đó thở dài một hơi: "Bây giờ ngươi trở nên xấu xí như thế này thì làm sao ta cho vào miệng được đây."

Tên này ăn thịt người sao?

"Yêu, yêu quái?" Nhĩ Đông lắp bắp nói.

Khi nghe thấy hai từ "yêu quái" thoát ra từ miệng Nhĩ Đông, nụ cười của gã càng lúc càng lộ liễu: "Yêu?"

"Con yêu ma duy nhất ở đây chẳng phải là ngươi sao?"

Nhĩ Đông không thể cử động, chỉ có thể trơ mắt nhìn kẻ đó từ từ tiến lại. Đôi mắt đỏ sẫm như cục máu đông phản chiếu một khuôn mặt. Sau khi nhìn thấy rõ bóng dáng của bản thân trong đôi con ngươi ấy, Nhĩ Đông hít một ngụm khí lạnh.

Làm thế nào mà y lại biến thành kẻ như này được chứ?

Tuyết ngừng rơi, tia nắng đầu tiên của mặt trời đã xua tan cơn ác mộng. Trong phòng, bếp than đang cháy và hơi lạnh ngoài cửa sổ lại chẳng thể xông vào.

Nhĩ Đông mở mắt, y nhớ bản thân đã quỳ ở ngoài, ngất xỉu rồi gặp một cơn ác mộng khác. Và hiện tại, y đang đắp một tấm chăn bông dày ở trên giường, hai bầu má ửng đỏ vì hơi nóng từ bếp than. Nhĩ Đông muốn ngồi dậy, nhưng vừa mới cử động, miệng y đã phát ra vài tiếng ho khan vụn vỡ.

"Khụ, khụ." Dù Nhĩ Đông che miệng, nhưng cơn ho vẫn không dừng lại, một lần ho là một lần lá phổi nhức nhối đau.

Tiếng bước chân đến gần, có một người vén tấm rèm che đi vào. Sư phụ ngồi xuống ở rìa giường, trên tay còn bưng một bát sứ. Hắn chỉ mới sáp lại, Nhĩ Đông đã ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc.

"Uống thuốc đi." Sư phụ nói.

Nhĩ Đông vươn tay ra, nhưng thay vì nhận được bát, người đàn ông đó lại múc một muỗng thuốc, rồi đưa đến miệng y. Bờ môi còn vương thuốc ấm, như thể vừa tỉnh khỏi giấc chiêm bao, Nhĩ Đông nhìn sang sư phụ.

"Đắng?"

Mặc dù sư phụ vẫn như thường ngày, trên mặt cũng không có biểu cảm thương xót, nhưng Nhĩ Đông đã vô cùng hài lòng rồi.

Nhĩ Đông lắc đầu, trong lòng thầm nghĩ, dù thuốc có đắng đến đâu thì y cũng sẽ cố nuốt trôi.

Người nọ nâng tay cầm muỗng lên, từng đợt thảo dược chảy xuống khoang miệng Nhĩ Đông. Khoảnh khắc khi vị thuốc chạm vào đầu lưỡi, một mùi vị đắng ngắt mạnh mẽ ập đến tận trời. Nhĩ Đông cúi người phun hết thuốc ra ngoài, rồi tiếp tục nôn khan.

Y lau khóe miệng: "Sư phụ, là do con sơ ý. Người đưa bát cho con để con tự uống ạ."

"Không cần." Người nọ đứng lên, rồi mang chén thuốc đi.

Dõi theo bóng lưng của sư phụ, sự khó chịu của Nhĩ Đông vẫn không lắng xuống. Y hướng mắt ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy một biển tuyết mênh mông. Đáng lẽ bát thuốc kia Nhĩ Đông phải uống sạch, sư phụ đã khổ cực sắc thuốc, thế mà y lại phun ra hết.

Liệu sư phụ có hiển trách y không hiểu chuyện không? Vừa mới nghĩ đến chuyện này, cơn ho mới ngừng liền chạy nhanh đến vòm họng. Sau đợt ho khan, cơn buồn ngủ nổi lên. Nhĩ Đông nằm úp sấp trên gối, đang nửa mê nửa tỉnh thì sư phụ lại tới.

"Đổi thuốc, nuốt xuống." Hắn xòe lòng bàn tay, nằm trong đó là một viên thuốc to bằng hạt sen.

Nhĩ Đông uống thuốc cùng với nước, cơn đau chưa kịp lan đến môi và lưỡi thì viên thuốc đã rơi xuống bụng.

Sư phụ bưng bếp than lên và đóng cửa sổ lại: "Không cần ngồi dậy, ngươi nghỉ ngơi một lát đi." Nói xong liền rời đi.

Nhĩ Đông kéo chăn lên, rồi vùi mặt vào lớp bông mềm mại đó. Y ngây ngô cười mãi đến khi khóe môi đều trở nên cứng ngắc.

Hóa ra, sư phụ không chán ghét y như đã tưởng.

Nhĩ Đông tưởng rằng cơn phong hàn sẽ mau chóng qua đi, nhưng không ngờ được y đã nằm liệt trên giường ròng rã suốt ba ngày. Trước đây, sức khỏe của y luôn rất tốt, tuy vẫn gặp phải phong hàn, nhưng chỉ cần một chén thảo dược, cùng lắm là sau hai ngày, đổ mồ hôi sẽ khỏi bệnh ngay.

"Sư phụ, không cần... khụ, khụ... chế thuốc thành từng viên." Nhĩ Đông nói.

Bàn tay đang đưa thuốc của Chẩm Hàn Sơn cứng lại, bất động giữa không trung.

"Đầu lưỡi không nếm được mùi vị."

Nhĩ Đông nhìn bánh đậu trên bàn. Gần đây, y không ăn được gì. Hôm qua, khi đến thôn Mậu, sư phụ có mang về cho y một chiếc bánh đậu. Đây là món điểm tâm mà ngày nào y cũng muốn ăn, nhưng hiện tại, nó lại có vị như thuốc đắng.

Thứ thuốc đắng ngắt và cái bánh ngọt ngào ở trong miệng dần trở nên vô vị.

"Nếu... khụ, khụ... bánh đậu có thể để lâu thì tốt rồi, đến khi khỏi bệnh, con dùng một hơi... khụ, khụ... ăn sạch luôn."

Nhĩ Đông lại mê man ngủ mất mấy ngày. Mặc dù mỗi ngày đều uống thuốc, nhưng bệnh tình của y vẫn không theo chiều hướng tốt hơn.

Y cảm thấy bản thân tựa một cái cây, trước lúc mùa đông đến, từng lá từng lá rơi rụng, cuối cùng chỉ để lại những cành cây trơ trụi, xác xơ. Cây đào ngoài sân vẫn gầy guộc như cũ, nhưng vẫn còn lác đác những chiếc lá vàng khô héo rũ trên cành. Trước kia, Nhĩ Đông luôn lo lắng liệu một ngày nào đó cây đào sẽ chết; nhưng bây giờ xem ra, đến tận lúc y từ biệt cõi trần, nó sẽ vẫn như trước, không tàn không vượng (*) mà tồn tại.

(*) Không tàn không vượng (不荣不枯): chỉ cây cối héo úa, vàng úa và không phát triển mạnh mẽ. Đôi khi còn được dùng như một phép ẩn dụ cho sự thiếu hụt năng lượng và sức khỏe của con người, đồng thời cũng ám chỉ sự kém may mắn.

Y sẽ chết sao?

Cơn bệnh này kéo dài nguyên một mùa đông và không có dấu hiệu thuyên giảm. Cơ thể của Nhĩ Đông kiệt quệ, đến cả việc suy nghĩ cũng làm y mỏi mệt.

Vào một đêm, Nhĩ Đông nghe thấy tiếng tuyết rơi trong giấc mộng của mình. Bếp than trong phòng vẫn tỏa nhiệt hừng hực nên dẫu ngoài trời có giá rét, trong phòng vẫn ấm áp như mùa xuân.

Nhĩ Đông rơi vào giấc chiêm bao, chợt cảm thấy có thứ gì đó đặt trên trán mình, nó mát lạnh, xua đi cái nóng tích tụ do sưởi bằng than củi lâu ngày. Y cực kỳ thoải mái, chỉ hận không thể khiến thứ đó nán lại thêm chút nữa. Tuy nhiên, dường như kẻ nào đó đã lấy nó đi mất, Nhĩ Đông hoảng loạn níu chặt tay người nọ.

Đừng đi...

Người đó dừng lại.

Nhĩ Đông thức giấc, rơi vào mắt y là một gương mặt tĩnh lặng đang say giấc đẹp tựa tranh vẽ. Đôi lông mày đen rậm thẳng đến hai bên thái dương, sống mũi cao thẳng như từ ngọc khắc ra, và đôi mắt luôn khiến y vừa vui vừa sợ kia đang nhắm chặt, chặn đứng sự thờ ơ trong con ngươi. Không còn cặp mắt sắc bén, khuôn mặt này bỗng trở nên dịu dàng xiết bao.

Điều đầu tiên Nhĩ Đông làm là lẳng lặng trộm ngắm một phen, sau đó, y mới ý thức được chuyện bản thân đã kéo tay áo sư phụ nguyên một đêm. Lúc này, y căng thẳng vô cùng, nhắm mắt lại giả bộ tiếp tục ngủ.

Bên cạnh truyền đến âm thanh sột soạt, Chẩm Hàn Sơn đứng dậy. Nhĩ Đông lén lút hé một mắt ra nhìn theo bóng lưng sư phụ. Dù mái tóc dài được búi lên bằng chiếc trâm làm bằng trúc có chút lộn xộn nhưng vẫn nhìn không ra việc hắn đã nằm trên chiếc giường nhỏ này cùng y cả đêm.

Nhĩ Đông vốn muốn giả bộ ngủ để nhìn trộm, nhưng cơn ho đã bán đứng y.

"Đã đến lúc chúng ta phải đi xa một chuyến rồi." Chẩm Hàn Sơn nói.

Nhĩ Đông kinh ngạc hỏi: "Không phải người cấm con không được ra ngoài nữa sao?"

Bởi vì lắm miệng hỏi về Tà khê nên sư phụ mới phạt y quỳ trên nền tuyết lạnh.

"Hơn nữa," Nhĩ Đông cúi đầu, ủ rũ nói, "Sức khỏe của con không tốt, sẽ kéo chân người mất thôi."

"Đừng hỏi, cứ theo ta."

Có thể ra ngoài lần nữa, Nhĩ Đông lẽ ra phải vui vẻ, nhưng bệnh nặng đã làm hao phí bao tâm tư của y, Nhĩ Đông nằm im một chỗ hồi lâu cũng không muốn động đậy. Tối đến, sư phụ đưa thuốc cho y. Y cũng chẳng buồn nhìn, cầm lấy rồi nuốt luôn. Không bao lâu sau khi nuốt thuốc xuống, toàn thân y bỗng nhẹ nhàng hơn và cơn ê ẩm cũng tan biến mất. Kể ra đúng là kì lạ, khi trước uống bao nhiêu thuốc là thuốc vẫn không thấy có tác dụng gì, nhưng thuốc của ngày hôm nay chỉ cần một khoảng thời gian ngắn là có hiệu quả.

Nhĩ Đông xốc chăn lên, phấn khích tìm sư phụ. Y vừa la lớn, vừa đẩy cửa: "Sư phụ, con khỏe rồi! Con không còn vấn đề gì nữa!"

Sư phụ ngẩng đầu lên, trên gương mặt không có nửa phần ý cười.

Nhĩ Đông như vừa bị tạt một chậu nước đá, nụ cười trên môi cũng héo hon một ít.

"Đi chuyến này không biết bao giờ mới về được, ngươi nên thu dọn đồ đạc đi."

Nhĩ Đông hỏi: "Lần này thầy trò mình đi đâu vậy ạ?"

"Đến nơi sẽ biết."

"Bây giờ ngọn núi bị tuyết dày bao phủ, đường không dễ đi."

Sư phụ liếc y một cái, Nhĩ Đông liền che miệng, lầm bầm nói: "Con không nói nữa, đi đóng gói đồ liền ạ."

"Đừng đi, ra đây trước." Chẩm Hàn Sơn nói.

Nhĩ Đông bước tới. Chẩm Hàn Sơn lại bảo: "Thêm chút nữa."

Nhĩ Đông chỉ tiến thêm một bước nhỏ. Chẩm Hàn Sơn trực tiếp nắm lấy cổ tay của y, kéo y đến trước mặt hắn. Dù Nhĩ Đông sống dưới một mái nhà với sư phụ, nhưng hắn chưa bao giờ muốn gần gũi với y nên Nhĩ Đông rất hiếm khi ở gần sư phụ như vậy.

Lúc đến gần hơn, hương thơm giống mùi thảo dược trên cơ thể sư phụ trở nên rất rõ ràng. Mùi đó không thể nói là dễ ngửi, nhưng khi sáp lại, cũng không đến mức khó chịu. Hương thơm của cỏ cây mang đến cho y cảm giác như thể đang đứng giữa một rừng cây, đây chính là hương vị khiến người ta cảm thấy thoải mái nhất. Tựa năm xưa lén uống trộm mật hoa mộc quế, đầu Nhĩ Đông bỗng choáng váng.

Châm Hàn Sơn vươn tay sát cổ Nhĩ Đông làm y căng thẳng rụt cổ lại.

Hắn bất đắc dĩ hỏi: "Ngươi sợ cái gì?"

Nhĩ Đông không biết, hóa ra sư phụ chỉ tháo vòng cổ của y xuống, vậy mà y lại chuyện bé xé ra to. Sau khi Chẩm Hàn Sơn gỡ vòng cổ của Nhĩ Đông ra, hắn ra hiệu cho y đi ra chỗ khác. Trước khi đi, Nhĩ Đông nhìn chiếc vòng cổ của mình, nó tỏa ra một loại ánh sáng màu vàng kim. Nhĩ Đông dụi mắt, ánh sáng đã biến mất không thấy tăm hơi.