Chậm Rãi Mê Hoặc - Lục Chi Nam

Chương 41




Tiểu Lâm lần nữa hỏi tiếp viên khi nào máy bay cất cánh, cô tiếp viên trả lời, sau đó cậu ta báo với Thẩm Phong: “Chúng ta vào đường băng rồi, chuyến kế tiếp sẽ là chúng ta ạ."

Thẩm Phong nhẹ nhàng "ừm".

Tiểu Lâm nói: "Sếp, nếu tối nay anh không vội về thì bây giờ chúng ta có thể ngủ lại khách sạn."

Thẩm Phong bình tĩnh nói: “Ở nhà không có ai đợi cậu, đương nhiên cậu không vội.”

Tiểu Lâm nhìn trời, vừa rồi ông chủ thẳng thừng khoe khoang tình cảm, cậu chỉ có thể "ồ" một tiếng, sau đó quay lại hỏi Lữ Lạc: "Cô Lữ, có ai đang đợi cô ở nhà không?"

Ba người bọn họ cùng nhau về lại Bắc Kinh trong đêm nay. Mất năm giờ để đi từ làng Miêu đến thành phố, lại mất thêm một giờ nữa mới đến được sân bay, mọi người đều mệt mỏi.

Lữ Lạc sửng sốt một chút rồi nói: “Nhà tôi có một con chó, sợ nó ở một mình sẽ không yên.”

Tiểu Lâm: "À, vậy là chỉ có mình tôi cô đơn thôi"

Lữ Lạc cười gượng gạo, cô ta luôn cảm thấy Tiểu Lâm ngấm ngầm có địch ý mỗi khi nói chuyện với cô ta, nhưng việc này lại vô cùng mờ nhạt, không biểu hiện quá rõ ràng.

Cuối cùng máy bay cũng cất cánh. Thẩm Phong vừa nhắm mắt lại đã nhìn thấy khuôn mặt vương đầy nước mắt của Doãn Tang trước mặt. Chỉ là một giọt nước đọng trên khoé mắt nhưng đủ để nghiền nát sự kiêu hãnh của anh. Trước đây, anh chưa bao giờ thấy cô khóc.

Tâm trạng của cô đã tuyệt vọng đến cỡ nào ở phòng KTV lúc đó?

Lời bài hát: "Em ngồi trong phòng tối, từng thước phim quá khứ chầm chậm chiếu lại, trong mắt tràn đầy tình yêu đã mất, giống như một người mất ngủ giữa đêm, ngồi yên lặng bên tách cà phê bốc khói…”

Cô nhớ anh.

Khi trong đầu nảy ra suy nghĩ này, lòng Thẩm Phong như thắt lại, không quan tâm đến khoảng cách và thời gian, lái xe hơn 400km đến sân bay ngay trong đêm.

Anh rất muốn gọi điện cho cô nhưng Mễ Thụy nói cô hơi say nên đã về nhà trước rồi.

Đành phải thôi

Không ngờ, anh lại nhận được một tin nhắn thoại, sau khi bấm vào thì không có âm thanh nào cả, có trời mới biết anh đã hoảng sợ đến mức nào, lo lắng cô đang gặp rắc rối. Đột nhiên nghe thấy tiếng mắng của cô, tảng đá to trong lòng Thẩm Phong rơi xuống, anh cảm thấy rất vui vẻ.

"Tên khốn," dùng đến từ này, có vẻ như anh đã chọc tức cô thật rồi.

Anh thực sự không chủ đích xa cách với cô. Biết tin cô về nhà lớn, anh đã chạy đến đó, ôm cô ngủ an tĩnh một đêm.

Nhưng đã đến lúc anh phải đánh cược.

Anh đã về được nửa năm, giờ là lúc kiểm tra thành quả.

Nếu thành công thì anh đương nhiên sẽ rất vui mừng, nhưng nếu cô vẫn nhất quyết trốn trong vỏ bọc của mình, vậy anh có thể làm gì được. Cây sắt cũng có ngày nở hoa, việc duy nhất anh có thể làm chỉ là chờ đợi Doãn Tang bước ra khỏi bóng tối của chính mình.

Tất cả là vì anh đã nợ cô.

***

Doãn Tang có một giấc mơ ướt át, ngực của cô bị người ta vuốt ve, dần dần sưng tấy, một sự ẩm ướt mềm mại xâm chiếm miệng cô, cơ thể như một cây kẹo bông gòn, cảm giác ngứa ngáy khó chịu. Cô vặn hông, rên rỉ yếu ớt.

Vòng eo của cô được một lòng bàn tay ấm áp vuốt ve, chậm rãi đi vào "khu rừng bí mật," Doãn Tang cong lưng, vừa trốn tránh vừa đón chào.

Dái tai ẩm ướt, nóng hổi, mang theo sự mềm mại từ trong khoang miệng đến sau gáy. Hơi thở nóng hổi lưu chuyển trong ốc tai như có điện, tứ chi cô tê dại.

Doãn Tang không thể nhịn được nữa, rên thêm một tiếng, vòng eo của cô bị nhấn xuống giường.

Doãn Tang mở mắt.

Trước mắt cô tối đen như mực, hồi lâu cô mơ hồ nhìn thấy một cái đầu đang bò trên ngực mình.

Là một giấc mơ?

Thẩm Phong ngay lúc này đi vào cơ thể cô.

Tiếng rên thứ ba có âm lượng cao hơn hai lần trước.

“Đây là mơ à?” Doãn Tang lẩm bẩm, vươn tay nhéo vào eo người đàn ông.

Thẩm Phong khẽ rên, đẩy hông mạnh hơn, khiến Doãn Tang gần như chìm xuống đầu giường.

“Đến giờ thức dậy rồi,” một giọng nói chậm rãi vang lên, “em yêu.”

Không phải mơ, giọng Thẩm Phong rất ấm áp.

Doãn Tang mở to mắt, dùng tay đẩy anh nhưng hai chân không tự chủ lại áp chặt hơn vào Thẩm Phong.

Từng chút một, sâu sắc và khẩn trương.

Doãn Tang nói đứt quãng, “Trở về làm gì?”

Người đàn ông chăm chỉ làm việc của mình, không trả lời cô mà nắm chặt hay tay cô đưa qua đầu, thẳng lưng va chạm khiến Doãn Tang gần như không thở nổi.

Thẩm Phong trầm giọng rên một tiếng, trong mắt Doãn Tang lóe lên một tia sáng trắng, sự vật trở nên không rõ ràng.

Vào giây phút cuối cùng, Thẩm Phong nói vào tai cô: “Em.”

Doãn Tang mơ hồ không hiểu anh đang nói gì, lúc sau mệt quá liền ngủ thiếp đi.

Bầu trời dần sáng, một ngày mới lại đến.

Lữ Lạc vừa về, cô ta từ chối lòng tốt của Tiểu Lâm, bắt taxi về nhà một mình.

Sáng sớm mùa đông, gió thổi buốt tai, ánh đèn đường xuyên qua những thân cây khô héo, lá vàng rơi thành một lớp dày ở dưới chân, con đường nhỏ và nhếch nhác, khung cảnh ảm đạm. Khu nhà cũ nằm ngoài đường cao tốc số bốn, những ngôi nhà đã cũ, có phần đổ nát.

Phía Nam vốn là khu vực nghèo nhất Bắc Kinh, những ngôi nhà nhỏ ven cao tốc số bốn tập trung đủ thành phần công nhân nhập cư, người đến đây lập nghiệp, người thất nghiệp, lao động chân tay...

Bình thường, cô ta hay ăn mặc đẹp nên luôn thu hút sự chú ý khi đi dạo trong tiểu khu. Thường thì cô ta không bao giờ cười hay nói chuyện với người khác, cũng hiếm khi ra ngoài ngoại trừ lúc dắt chó đi dạo. Tổng thể, Lữ Lạc luôn làm mọi người không khỏi nhìn lại.

Cô ta nuôi một chú chó chăn cừu Đức, là giống chó to lớn với vẻ ngoài hung dữ. Rất ít phụ nữ độc thân nuôi loại thú cưng này, thậm chí còn hiếm hơn đối với người có ngoại hình nữ tính như cô ta.

Lữ Lạc sống ở đây được gần hai năm.

Không phải cô ta không có tiền để sống trong một ngôi nhà tốt hơn, cô ta chỉ đơn giản là không muốn chuyển đi. Thứ nhất, trong một cộng đồng từ trung cấp đến cao cấp, nếu nuôi chó thì phải khai báo, đối với con chó to như này thì rất khó được chấp thuận; thứ hai, cô ta được coi là nhân vật hơi có tiếng trên mạng, ở đây không có người trí thức cao, không ai biết đến cô ta. Lữ Lạc cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi ở chỗ này, đặc biệt hoàn cảnh sống ở đây là để cô ta nhắc nhở chính mình: khó khăn vẫn còn ở phía trước.

Ngày xưa, cô ta từng là một cô gái nhút nhát tốt bụng đến mức không dám dẫm lên cỏ, không bao giờ có ác ý với người khác và luôn tin chắc rằng bản chất con người vốn là lương thiện.

Cho đến lúc cô ta xin đi dạy học tình nguyện trên núi.

Khi đó, cô ta đang gặp bế tắc trong các sáng tác. Nhiều độc giả cho rằng cô ta đang mắc kẹt trong tư duy. Lữ Lạc cũng nhận thức được điều này nên quyết định đột phá. Sau khi đọc được nhật ký của một giáo viên, cô ta quyết định lên đường.

Cô ta chọn định cư ở Miêu tộc. Quá trình tìm hiểu, cô ta nhận ra dân tộc này có rất nhiều điều bí ẩn thú vị. Trong những ngày giảng dạy ở đây, dành thời gian cho bọn trẻ cả ngày lẫn đêm, trái tim cô ta cũng bình yên trở lại. Nhưng ông trời không đối tốt với cô ta quá lâu.

Lũ Lạc muốn đem tri thức vào núi, chưa biết có truyền được lửa hay không, chỉ biết chính mình đã bị sự ngu muội đốt cháy.

Ban đầu cô ta không hiểu người thất học khủng khiếp đến mức nào, cho đến khi bị trói, nhốt vào tầng hầm tối tăm không được nhìn thấy ánh sáng, Lữ Lạc mới bàng hoàng và nhận ra rằng những người này không bao giờ tiếp thu được tri thức hiện đại. Với họ, mọi việc đều có thể được mua bằng tiền, và phụ nữ chỉ là công cụ sinh sản có thể trao đổi mua bán; vì vẫn sống như người nguyên thuỷ, về bản chất họ chỉ biết dùng sức mạnh để đàn áp những ý kiến trái chiều.

Lúc đầu cô ta còn phản kháng mạnh mẽ, sau lại nhận ra, việc phản kháng chỉ là vô ích, thậm chí làm sự việc càng thêm tồi tệ, không những không khiến đối phương sợ hãi mà còn tăng thêm sự đề phòng của bọn họ. Cô ta bị “thuần phục” dưới tầng hầm ngày đêm, không biết thời gian trôi qua như thế nào, chỉ khi bụng phình lên, cô ta nhận ra mình không thể tiếp tục như thế này nữa nên bắt đầu im lặng và chấp nhận sự chăm sóc của bà đồng người Miêu nọ. Đếm ngày tháng theo từng bữa ăn được giao, cuối cùng Lữ Lạc cũng thuyết phục được người đàn ông kia cho cô sống trên mặt đất trước khi thai nhi được 4 tháng tuổi.

Cuối cùng cô ta cũng nhìn thấy mặt trời.

Thôn cô ta ở cách rất xa thị trấn, con đường vào thôn chỉ rộng một mét, cỏ dại mọc um tùm, phương tiện di chuyển duy nhất chính là xe máy cày, đường đất ngoằn ngoèo vô cùng khó đi. Lữ Lạc hiểu, một khi cô ta không còn giá trị sinh sản thì sẽ bị bọn họ biến thành vật thừa thãi, tên đàn ông kia cũng chỉ là ham muốn thân xác cô ta. Tuy nhiên, nếu không bán cô ta thì anh ta sẽ không có tiền để cưới một người phụ nữ có thể mang thai cho anh ta.

Cô ta tìm cách thoát khỏi đứa trẻ này.

Ban đêm, Lữ Lạc ngồi ngoài cửa, ngấu nghiến ăn tuyết khiến chính mình cảm lạnh, sảy thai.

Người đàn ông đấm đá cơ thể lạnh ngắt của Lữ Lạc, hắn tưởng cô ta đã chết nên vứt cô ta ở một nơi hoang dã.

Đến tối, cô ta tỉnh dậy và bỏ trốn.

Sau khi trở về, cô ta không còn như xưa. Sau một năm không liên lạc, cô ta không thể nhìn người thân, bạn bè một cách bình thường nữa, chỉ nói rằng cô ta đi dạy học tình nguyện, bây giờ trở về. Người xung quanh nghi hoặc nhưng cũng chỉ có thể nói sau lưng Lữ Lạc.

Cô ta rời bỏ tất cả, một mình đến phương Bắc xa xôi, không có gia đình, cũng không có hy vọng.

Lữ Lạc bắt đầu thù ghét những người dân tộc thiểu số mà cô ta từng cho là tốt bụng và lương thiện. Cô ta nghĩ đến việc gọi cảnh sát, nhưng lại lo ngại cho danh tiếng hiện tại của chính mình. Báo cảnh sát thì sao? Cũng chỉ có thể nhận lại sự thương hại.

Sự thương hại sẽ dẫn đến nghi ngờ: phải chăng cô ta khinh ghét người nghèo?

Cô ta cũng cảm thấy lạnh sống lưng khi nghĩ đến lời đồn: Lữ Lạc, nhà văn bị bắt cóc và bị bán đi.

Lúc đó, Lữ Lạc quyết định cô ta chỉ có thể dựa vào chính mình. Có lẽ, cô ta nên tìm một phương thức cụ thể cho việc trả thù.

Lữ Lạc bắt đầu nhấc bút lên, suy nghĩ đến việc tốt nhất cô ta có thể làm lúc này.

Cô ta, Lữ Lạc, muốn danh lợi, cũng muốn dùng cách riêng của mình để phá huỷ tất cả những gì cô ta muốn phá huỷ. Cô ta mất nửa năm để xuất bản tác phẩm của mình dưới danh nghĩa một cuốn tiểu thuyết thú vị và sâu sắc, nhưng những tệ nạn xã hội ẩn giấu giữa những dòng chữ chính là điều cô ta muốn đả kích.

Những kẻ ngu dốt và lạc hậu nên bị xã hội này gạt bỏ.

"Làng Nghê Hồng," cái tên này xuất phát từ tên tiếng Miêu của cô ta. Lữ Lạc không biết nó có nghĩa là gì, chỉ nhớ rằng người đàn ông ghê tởm đó gọi cô là "Nghê Hồng."

Đó là chuỗi ngày nhục nhã.

“Làng Nghê Hồng” kể về một câu chuyện trả thù.

Nhân vật chính, Lạc Dương là một cảnh sát. Để tìm ra kẻ sát nhân đã giết cha mình, anh ta từ chức ở thành phố và lẻn vào làng của người Miêu để âm thầm điều tra. Trong thời gian này, anh ta gặp Nghê Hồng, một giáo viên tiểu học. Cô giáo Nghê Hồng xinh đẹp và hào phóng nhưng từ nhỏ đã bị cha mẹ ruột bỏ rơi. May mắn thay, cô ta đã chăm chỉ học hành để trở thành giáo viên.

Vì yêu Nghê Hồng nên Lạc Dương từ bỏ công việc tìm kiếm kẻ thù của mình và trở thành giáo viên tình nguyện ở một trường tiểu học. Cả hai cùng nhau giúp học sinh thoát khỏi sự ngu dốt và lạc hậu. Hàng ngày hai người cùng đến lớp, thêu thùa, trồng rau và sống một cuộc sống bình yên, tươi đẹp.

Những ngày yên bình cuối cùng cũng kết thúc.

Nghê Hồng bị bán đến làng của người Miêu trên núi, Lạc Dương một mình đi giải cứu. Không ngờ, anh ta tìm thấy cha ruột của Nghê Hồng ở đó. Vén màn sương mù, Lạc Dương phát hiện ra kẻ sát hại cha mình chính là cha của Nghê Hồng.

Bị vướng vào yêu và hận, cuối cùng cả hai đã chọn cách mặc váy cưới lộng lẫy rồi cùng nhau nhảy xuống từ vách núi nơi họ đã gặp nhau lần đầu.

Câu chuyện kết thúc trong bi kịch, để lại nhiều suy ngẫm.

Lữ Lạc không biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu.

Có lẽ, cuốn sách này chính là một bước ngoặt khác trong cuộc đời cô ta, hoặc có lẽ, tất cả đều vô ích. Chẳng còn quan trọng, mọi chuyện đã đến bước này, không có gì tồi tệ hơn được nữa.