Cây Tỏi Nổi Giận

Cây Tỏi Nổi Giận - Chương 16




Huyện Thiên Đường từng xuất hiện anh hùng hảo hán

Sao giờ đây chỉ là đồ giẻ rách

Người người mặt ủ mày chau

Ôm tỏi thối mà than dài thở ngắn!

- Khấu mù hát động viên dân trồng tỏi xông vào huyện đường. Trích đoạn.

Cao Mã tuột xuống đất thì đầu tường hai tiếng súng nổ, bụi tung mù mịt, đất văng rào rào. Anh rơi trúng chuồng lợn của một gia đình, phân lợn bắn tung toé. Hai con lợn giật mình kinh hoảng hộc lên, chạy thục mạng quanh chuồng. Anh không kịp suy tính, đâm bổ vào chuồng trong, đầu va phải cái gì đó, tiếp đến là mặt mũi và đầu buốt như kim châm. Mở mắt nhìn, anh thấy treo lủng lẳng dưới gác chứa củi một tổ ong vò vẽ to bằng cái bát, hàng trăm con ong vỡ tổ xông ra như một đám mây màu vàng. Anh sợ quá, nằm úp mặt xuống đất, không dám ngẩng đầu lên. Chợt nghĩ có thể cảnh sát sục tới, anh ôm đầu chạy khỏi chuồng lợn, nhảy qua bức tường vây cao bằng nửa thân người, sang phía sau một đống rơm rạ, quành ra sân định chạy về phía đông thì cánh tay bị giữ lại. Nhìn lại, thấy một khuôn mặt trắng trẻo, anh chợt nhớ đây là nhà thầy giáo Chu, giáo viên tiểu học nông thôn. Thầy Chu từng bị Hồng vệ binh đánh gãy xương sống, không đứng thẳng được, hai gọng chiếc kính cận đều quấn băng dính.

Cao Mã không chủ định mà tự nhiên quì xuống xin thầy cứu mạng, rằng cảnh sát đang truy bắt anh về chuyện tỏi.

Thầy Chu dắt anh vào gian buồng tối như hũ nút, chứa toàn những hứ linh tinh, chổi cùn xế rách, xó buồng có một cái anh lớn ủ thức ăn cho lợn.

- Nhảy vào đi! – Thầy Chu bảo.

Cao Mã bất chấp cái mùi thum thủ của cám bã lên men, nhảy đại vào trong ang, ngồi thụp xuống, thức ăn của lợn dềnh lên mấp mé miệng ang. Thầy Chu ấn đầu anh, ra hiệu xuống thấp hơn nữa. Anh cố nhún thấp thêm, miệng đã lút trong cám. Thầy Chu dặn: “Không được lên tiếng, phải nín thở!” Thuận tay, thầy vớ cái gáo múc cám úp lên đầu Cao Mã, rồi lại kiếm đâu cái nắp ang vỡ, nửa đậy nửa không miệng ang.

Ngoài sân vang lên tiếng chân bước nặng nề, Cao Mã ló đầu lên một chút, hở tai ra để nghe. Anh thấy tiếng chân đi ra chuồng lợn, liền sau đó vọng lại tiếng cảnh sát:

- Mày… mày… mày nấp trong chuồng lợn, tưởng… tưởng… tưởng chúng tao không trông thấy hẳn? Ra… ra… ra mau!

- Không ra tao bắn!

- Đồng chí, các đồng chí làm gì đấy? – Thầy Chu hỏi.

- Bắt… bắt phản Cách mạng!

- Bắt phản cách mạng mà sao bắt tai chuồng lợn nhà tui?

- Ông đừng rắc rối! Bắt được rồi sẽ giải thích cho ông – Cảnh sát quát to – Ra ngay không tao bắn! Luật tố tụng hình sự qui định, phạm tội mà chống lại, được phép dùng biện pháp cưỡng chế, bắn chết mi cũng không phạm pháp.

- Các đồng chí cứ đùa!

- Ai… ai đùa với ông? – Cảnh sát Cà Lăm nói – Để tôi vào xem!

Cà Lăm tì tay lên mặt tường, lấy đà nhảy vào chuồng lợn ngó ngang ngó dọc, mấy con ong suýt đốt trúng miệng anh ta.

Thầy Chu nói: “Các đồng chí, đây không phải đối phó với lính Quốc Dân Đảng mà đánh lừa các đồng chí. Vừa nãy nghe tiếng súng nổ và lợn kêu, tôi chạy ra thấy một bóng đen nhảy ra ngoài bức tường phía nam.”

Cảnh sát nói: “Che giấu tội phạm là phạm tội, ông hiểu chứ?”

Thầy Chu nói: “Tôi hiểu.”

Cà Lăm hỏi: “Ông tên là gì?”

Thầy Chu nói: “Tôi tên Chu Tam Thiên.”

Cà Lăm hỏi: “Ông… ông… ông trông thấy bóng đen nhảy… nhảy qua tường phía nam?”

- Ông làm nghề gì? – Cảnh sát không nói lắp, hỏi.

- Tôi dạy học.

- Đảng viên không?

- Trước giải phóng tôi là đảng viên Quốc Dân Đảng.

- Quốc Dân Đảng? Giờ thì Quốc Dân Đảng bở hơn Cộng sản Đảng, ông… ông… ông mà đánh lừa bọn tôi, bọn tôi sẽ kết tội ông, bất kể ông là Quốc Dân Đảng hay Cộng sản Đảng!

- Tôi hiểu.

Hai viên cảnh sát nhảy vào chuồng lợn rồi nhảy qua tường phía nam, đuổi theo bóng đen. Cao Ma biết, bên ngoài tường nam là ngõ cụt, có xưởng cán mì. Một bên ngõ cụt là mương nước tù, mùi hôi thối xông lên nồng nặc.

Thầy Chu bỏ cái gáo trên đầu Cao Mã, giục: “Chạy mau, chạy về hướng đông, dọc theo ngõ!”

Anh tì tay lên miệng ang, co người lên. Người anh đầy cám bã nhớp nhúa, một thứ nước màu hồng xỉn chảy tong tỏng từ khuỷu tay xuống đất. Anh lại không kím được, định sụp lạy thầy Chu như trong Kinh kịch, để cảm ơn thầy cứu mạng. Thầy Chu nói: “Anh đừng làm thế! Mau chạy đi!”

Cao Mã chạy vào sân. gió lùa vào quần áo ướt, anh cảm thấy mát lạnh. Anh chạy ra cổng nhà thầy, men theo một ngách hẹp, nhằm hướng đông chạy khoảng năm chục bước rẽ vào một ngõ lớn dọc theo hướng nam bắc. Đến đầu ngách, anh thoáng do dự, chỉ sợ hai bên đường bay vụt ra những đôi giày da, đá anh ngã quay lơ. đầu ngách là một hàng rào cao bằng nửa thân người – nhảy qua hàng rào, rơi trên vạt đất trồng rau mùi. Rau mùi cao hơn gang tay, xanh mượt, thơm ngát, đáng yêu vô cùng. Anh không kịp thưởng thức, vùng dậy chạy như bay về phía đông. Anh trông thấy ông già Cao Bình Xuyên tóc bạc phơ đang bón phân cho rau cải bẹ. Phía đông lại có một hàng rào chắn đường, anh nhảy qua nhưng lần này thì không gọn, chiếc còng trên tay anh vướng cây cao lương. Anh giật mạnh, cây cao lương gãy đôi, nghe thấy ông Cao Bình Xuyên hỏi: “Ai đấy?”

Lại một ngõ thông từ nam lên bắc, đầu phía nam có một đám phụ nữ đang lớn tiếng nói gì đó, đông và tây toàn là nhà cửa và tường rào, anh chạy về hướng bắc, chỉ mấy chục giây anh đã vượt con đê bằng cát, loạng choạng chui vào rừng liễu bên sông. Anh chạy về phía đông theo bản năng. Những cây liễu không được cắt tỉa, cành lá rậm rì, đan chen rối rắm, bám đầy những con bọ nét có gai độc, chạm phải chúng là những gai đâm vào da thịt, sưng buốt và ngứa không chịu nổi. Sau khi thoát hiểm, Cao Mã phát hiện người anh đầy gai độc. Anh chạy thục mạng, dẫm bừa lên những dâytật lê, gai cắm đầy chân mà không cảm thấy đau.

Trong rừng, mấy con thỏ rừng hoảng sợ chạy cùng chiều với anh, chỉ lát sau, chúng đã bị rớt lại phía sau. Một cây cầu xiêu vẹo, trụ gỗ, mặt lát đá xuất hiện bên trái anh. Rừng liễu đến đây là hết, anh đã về đến thôn – cây cầu nối đầu đông của thôn với cánh đồng và đường lớn. Anh không muốn có người nhìn thấy anh, bèn chạy trên đoạn phía nam con đường tính từ cây cầu, vượt qua những hố sâu do đào cát trộm, chui vào khu rừng tạp gồm những cây dâu và cây hoè. Hoa hoè đang nở rộ, mùi thơm gắt nghẹt thở. Anh chạy, chạy mãi, hai chân ngày càng nặng nề, hai mắt ngày càng mờ đi, toàn thân đau nhức, hơi thở tắc nghẹn, những thân cây dâu màu trắng, những thân cây hoè màu cánh gián đan vào nhau như mắt lưới khi mau khi thưa khiến bước chân khó khăn, anh tả xung hữu đột cũng khó tìm đường ra, anh ngã sóng soài trên cát.

Lúc chiều tà, Cao Mã tỉnh dậy, đầu tiên thấy bụng nóng như lửa, rồi sau đó là đau rát vì ngứa khắp người, ngón tay chạm vào da như có làn khí lạnh xuyên qua lỗ chân lông vào bên trong. Mắt sưng húp, chỉ còn như một sợi chỉ. Anh sờ mặt, khi thấy hai mắt chỉ như hai kẽ hở, anh giật mình nhớ lại anh đã bị ong vò vẽ đốt khi chui vào chuồng lợn nhà thầy giáo Chu.

Anh vươn tay hái một lá dâu, toàn thân kêu răng rắc. Anh đứng lên, chân sưng, đùi sưng, hốc mũi như muốn nổ tung, anh khát ghê gớm. Anh cố chứng minh, rằng sự việc xảy ra ban sáng chỉ là giấc mộng, nhưng cám lợn bám trên người anh, chiếc còng sắt trên cổ tay anh, xác nhận anh là tên tội phạm đang chạy trốn. Anh biết anh bị tội gì, hơn một tháng nay, anh phấp phỏng chờ đợi, chốt cửa sổ không bao giờ gài. Cơn khát cháy họng và đau rát trên da trở ngại cho sự suy nghĩ bình thường của anh. Anh luồn rừng đi lên phía bắc, nơi đó là lòng sông. Anh nhớ hồi mùa xuân, bố con nhà Cao Quần có đào một giếng nước.

Những gai góc của tật lê cắm vào gan bàn chân, anh lựa bước đi tránh. Cỏ mao đâm mũi nhọn vào bàn chân, anh dò dẫm mà đi. Nắng chiều đỏ như máu chiếu trên tấm thân trần, anh trông thấy trên người, đặc biệt trên hai tay và ngực nổi lên những cục. Anh đoán, đó là quà tặng của đám bọ nét ở rừng liễu.

Ra khỏi rừng dâu – hoè, lòng sông cát trắng lốp, mặt trời to đùng đang lặn nốt nửa còn lại, nghe rõ tiếng tích tích khi lặn, nửa trời phía tây mây hồng từng đám như những bông hoa nở rộ. Anh không còn lòng dạ ngắm cảnh kì thú, giương cặp mắt sưng húp tìm cái giếng.

Anh trông thấy có mấy đám đất màu nâu nhô lên phía xa bèn thất thểu chạy tới.

Nước, nước! Anh quì bên giếng vươn cổ ra như lừa ngựa, môi vừa chạm liền hối hả rít từng hơi, một phút sau, anh cảm thấy nước giếng đã kích thích sự khoái cảm vô bờ từ vòm miệng, yết hầu đến dạ dày. Có thể khoái cảm hơi quá, nên cảm thấy dạ dày tưng tức. Anh nghe thấy tiếng nước róc rách tưới mát cho cơ quan phủ tạng khô héo, anh uống liền một phút nữa, ngửa mặt lên thở trong mười giây, rồi lại cắm đầu uống tiếp. Lúc này anh mới cảm nhận được mùi vị và sự dịu dàng của nước.

Nước có mùi tanh, nước có vị mặn, nước nóng hôi hổi. Anh dìm đầu trong nước rồi từ từ đứng lên. Nước chảy xuống cổ, xuống ngực, xuống lưng và bụng, thấm ướt những nơi có gai độc của bọ nét, nọc độc khuyếch tán khiến anh đau thắt hậu môn.

Ối mẹ ơi! – Anh mệt bã, rên rỉ. Cúi nhìn giếng nước, thành giếng sạt lở, nước đầy rêu, trong rêu từng đám bọ gậy bơi lội, ba con chẫu chuộc to bằng nắm tay ngồi khấut bên mép giếng, cằm dưới trắng như tuyết, phập phồng đánh nhịp. Anh tựa lưng vào cây dâu, sáu con mắt xanh biếc nhìn anh, anh nhảy dựng lên chỉ chực nôn oẹ, cảm thấy hàng trăm con nỏng nọc bơi trong dạ dày, giãy giụa trong ruột. Một tia nước bật ra khỏi họng, vọt qua miệng ra ngoài. Anh không giám nhìn cái giếng nữa, ngật ngưỡng quay lại, trở về rừng hoè – dâu.

Mặt trời đã lặn hết nhưng vẫn chưa tối hẳn, trong rừng sương giăng mờ ảo, loài tằm dại ngóc cái đầu quái dị như đúc bằng kim loại, ngốn những lá dâu như mảnh kim loại, tiếng roàn roạt như xẻ gỗ cứa vào tim anh. Cục phân tằm to bằng hạt đậu xanh rớt trên cặp chân duỗi thẳng của anh. Anh tựa lưng vào cây dâu, thẫn thờ nhìn hoa hoè rơi dập dềnh như sóng trong sương mù. Hoa hoè lúc hoàng hôn càng thơm gắt, không khí như rắc đầy phấn hoa vàng.

Sau đó trăng lên, những ngôi sao lưa thưa vàng vọt, điểm xuyết cho màn đêm xanh thẳm. Những giọt sương lớn cùng rơi với phân tằm, y như đó là cặn bã từ các ngôi sao thải ra. Anh ngồi đó, có lúc một ý tưởng dữ dội thôi thúc anh bật dậy, nhưng chỉ cần gập chân lại, ý tưởng đó lại biến mất. Có lúc anh muốn đập gãy chiếc còng, nhưng vừa giơ tay lên, lại thôi.

Trên trời có tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Mắt anh gần như nhìn thấy vệt sáng như lửa lân tinh của đường bay, nhưng định thần nhìn kỹ, lại chẳng có gì cả, ngay những con chim chưa chắc đã có.

Nửa đêm về sáng anh cảm thấy rất lạnh, bụng sôi ùng ục như có thể đánh hàng tràng rắm, nhưng mtộ cái cũng không rặn ra. Anh trông thấy Kim Cúc khoác tay nải màu đỏ, cái bụng to tướng tránh cây hoè, vòng cây dâu, rụt dè đi tới,cách năm bước thì dừng lại, một tay vịn cây đay, dùng móng tay tước vỏ, cây đay run bần bật. Anh bảo: “Kim Cúc, lại đây!” Nét mặt Kim Cúc từ màu hồng chuyển sang màu vàng, từ vàng chuyển sang lục, từ lục chuyển sang xanh, cuối cùng là màu xám kinh khủng. Cô nói: “Anh Mã, em đi đây! Em đến chào anh một tiếng!”… Anh chợt tỉnh, thấy đó là điềm gở, cố nhích lên nhưng hai chân đã bị trói vào cây, không nhúc nhích được, đành vươn dài tay ra, tay dài đến mức sờ được vào mặt cô, nhưng đầu ngón tay vừa chạm mặt cô lạnh ngắt, đúng tầm ấy, tay anh không dài ra nữa. Anh cuống quít gào lên: “Kim Cúc, em đừng đi, chúng mình chưa có lấy một ngày yên lành bên nhau, đợi bán xong tỏi, anh sẽ cưới em về, anh đảm bảo, sẽ không bắt em dãi dầu sương gió, không để em sớm nắng chiều mưa, chỉ ở nhà trông con, nấu nướng…”

“Anh Mã, anh đừng mơ tưởng hão, tỏi của anh không bán được đâu, thối hết rồi! Anh đập phá cơ quan huyện, xuất phạm luật pháp, Công an dán cáo thị, vẽ hình tróc nã anh… Em chỉ còn cách đưa con đi trước anh…”

Kim Cúc giở tay đãy, lấy ra chiếc cátsét, nói: “Cátsét của anh đây, em lấy trộm ở chỗ anh Hai. Em đi rồi, anh một mình lẻ bóng, nghe cho đỡ buồn!...”

Cô quay đi, quần áo màu hồng biến thành màu trắng như tuyết.

“Kim Cúc!...” Cao Mã thét lên một tiếng, tỉnh ngủ.

Anh ngó đăm đăm vầng trăng nhợt nhạt đã nhô lên phía đông nam, trong lòng như bị hẫng, nhớ lại chuyện vừa xảy ra, tim đau thắt. Anh đã tính đi tính lại: Kim Cúc không hôm nay thì ngày mai ở cữ.

Rồi thì anh đứng dậy, như năm ngoái anh đã đứng dậy tại chỗ giáp ranh giữa cánh đồng đay và cánh đồng ớt của huyện Thương Mã, khi ấy là hoàng hôn, anh nôn ra đến hơn chục bụm máu. Anh em nhà Phương thực tàn nhẫn, gần như đẩy anh xuống âm phủ gặp Diêm vương! May mà có viên “Cứu mệnh đan” của trợ lý Dương, may mà được chị hàng xóm chăm sóc, anh mới không chết, may mà ba hôm sau, chị Vu chuyển lời nhắn của nhà họ Phương: Chỉ cần đem đến một vạn đồng là gả Kim Cúc cho, tiền trao cháo múc. Anh nhớ khi ấy mừng quá, anh khóc tu tu. Chị Vu nói: Nhà Phương bán con gái như bán súc vật! Anh nhớ anh đã nói: Chị ơi, em khóc vì sung sướng, em sẽ kiếm đủ một vạn đồng, em trồng tỏi bán ngồng, chậm nhất là hai năm, em lấy được kim Cúc!...

Ngồng tỏi! Tất cả là ở cái ngồng tỏi chết tiệt! Anh vấp phải cây dâu ở phía đông, đụng phải cây hoè ở phía tây, bị cây dâu níu lại ở phía nam, bị cây hoè đẩy lui ở phía bắc, loay hoay trong rừng dâu – hoè, bỗng mây đen ùa tới nuốt chửng vầng trăng, bốn bề dựng lên những bức tường cao vút, ma ám rồi! Con người ta có mười năm vượng, ma quỉ không dám đùa! Cao Mã, từ khi nhà ngươi gặp Kim Cúc, từ khi nhà ngươi nắm tay cô ấy, rủi ro bám riết ngươi từ đó!

Cao Mã loay hoay trong rừng suốt đêm, trời rạng mới trở lại tỉnh táo trong thế giới ma mị. Anh cảm thấy, trừ quả tim là còn âm ấm đôi chút, còn lại toàn thân lạnh như băng. Mắt đã bớt sưng, điều này khiến anh đỡ buồn. Mặt trời đỏ rực, da thịt ấm dần lên, điều này khiến anh vui vui. Bụng réo òng ọc, đánh liên tục mấy chục tiếng rắm lạnh toát, ruột đã thông, phủ tạng không hề hấn gì, anh cảm thấy vẫn còn hi vọng. Sau khi lý trí trở lại, anh cố gạt sang một bên ý muốn đến thăm Kim Cúc. Anh đoán, nhất định là hai viên cảnh sát súng lục cầm tay, phục tại nhà anh, đợi anh sa lưới, chỉ có là thằng đần mới về thôn giữa ban ngày. Kim Cúc hôm nay trở dạ thì đã có mẹ cô chăm nom, chắc không có gì nghiêm trọng, mẹ cô dù dữ đến mấy thì vẫn là mẹ!

Sau đây làm gì? Bình tâm trở lại, anh tự nhủ. Ở huyện Thiên Đường thì không dám lộ mặt rồi, cái còng đang trên tay mình. Đợi đến đêm, mình thăm Cúc rồi chạy ra Quan Đông kiếm tiền đón hai mẹ con.

Khu rừng hoè – dâu có chim bay đến, nhốn nháo hẳn lên. Anh cảm thấy đói, bèn chọn cây hoè to một chẹt tay, cao hơn hai mét, ngọn đầy hoa. Anh nhẩy lên bám cổ cây, chỗ gần ngọn, dùng toàn bộ sức nặng của mình vít ngọn cây xuống. Cây bị uốn cong kêu răng rắc rồi gãy đôi, mộ mảng vỏ lột tới gốc, thân lộ trắng hếu, ứa ra những giọt nhựa vàng vàng. Anh hái vội cả hoa lẫn nụ nhét vào miệng, những bông đầu tiên gần như chui tọt xuống dạ dày, sau đó mới thủng thẳng nahi, nhấm nháp hương vị, hoa hoè ngọt lợ, hoa đã nở có vị đắng, nụ có vị tê, chỉ những bông chưa nở hết là có nhựa, không đắng không tê, vậy là anh chọn toàn những bông bán khai, một buổi sáng, anh ăn hết hoa của ba cây hoè.

Giữa trưa trời nóng bức lại có phát hiện mới. Lúc này, anh đã ngán hoa hoè. Anh ngửi thấy mùi chua chua ngòn ngọt trên cây dâu. Anh trông thấy trên chạc cây đầy những quả có gai màu tím, màu đỏ tươi, màu vàng chanh. Quả dâu! Anh ngạc nhiên, reo lên.

Cũng như hoa hoè, lúc đầu anh nuốt tớm, bất kể chín xanh, nhắm mắt nuốt. Lát sau, anh mới đánh giá mùi vị, màu vàng chanh: cứng, ngọt ít, chua nhiều, hơi chát; màu đỏ tươi: hơi cứng, ngọt, hơi chua; màu tím: mềm, ngọt khắt, gần như không chua, thơm mãi trong miệng. Anh hái những quả màu tím. Anh có kinh nghiệm: rung cây. Những quả chín nẫu hễ rung là rớt xuống. Buổi chiều, chắc hẳn miệng anh tím ngắt, đó là anh suy ra từ ngón tay anh. Buổi chiều, anh còn một phát hiện vĩ đại nữa: quả dâu trắng, vỏ ngoài trong suốt thấp thoáng màu xanh bên trong, trông như những viên ngọc, mùi vị thì khỏi nói, hơn hẳn dâu tím. Đây là giống dâu mới, vỏ cây màu trắng, lá to bằng bàn tay, dày như đồng xu đồng.

Trời gần tối, anh đau bụng dữ dội, lăn lộn trên cát. Khi trên trời có sao, anh đi ngoài nửa tiếng, bụng dần yên. “Nửa tiếng” là anh phỏng đoán, đồng hồ của anh đã bị anh Hai của Kim Cúc giằng mất hồi năm ngoái.

Dù thế nào cũng phải về thăm nhà một tí. Lang thang chẵn một ngày, anh vô cùng đau khổ vì bị tách ra khỏi cuộc đời. Chưa cách biệt hẳn, vì ban ngày anh còn nghe thấy tiếng nói chuyện của đám phụ nữ hái dâu, còn được bò lên mặt đê ngó trộm người lao động ngoài đồng, gió nam đưa tới mùi tiểu mạch chín, tằm chín có giờ, lúa chín có ngày, hình như ngày mai đã được gặt? Anh sốt ruột quá. Anh trồng hai mẫu tiểu mạch, lúa tốt. Toàn bộ ngồng tỏi coi như bỏ, nếu tiểu mạch lại bỏ nốt, từ giờ đến cuối năm lấy gì ăn? Anh vuốt mái tóc rối bù, nhận ra tóc đã muối tiêu, khoé mắt và hai bên mép đã đầy nếp nhăn.

Anh định lợi dụng bóng đêm lẻn về nhà. Anh đoan chắc cảnh sát không tội gì mà phục suốt hai đêm trong nhà anh. Anh tính rồi, trước hết lấy quần áo ra mặc, nhất định phải đi giầy. Anh nhớ còn một đôi giầy bộ đội mới tinh để trong hộp giấy rách gác trên đầu tường – Anh em nhà Phương sơ ý, bỏ sót khi vét nhà anh. Trong kẽ tường phía đông có bốn trăm bảy mươi đồng. Đây là số tiền anh bán ngồng tỏi hôm trạm thu mua khai trương. Hốm ấy coi như anh là người may mắn trong thôn. Anh nghĩ, đưa cho Kim Cúc bốn trăm để mua cái ăn, sắm cho thằng nhỏ vài cái quần áo. Bảy mươi đồng còn lại, mình chạy lên đông bắc, phải tìm chiến hữu cũ là Phó Huyện trưởng, xem có thể viết cho Thiên Đường một thư tình cảm, đề nghị họ xoá tội cho mình.

Chiếc còng trên tay ánh lên màu sáng xỉn, muốn bỏ nó, phải chặt. Anh sờ chiếc còng thép thanh mảnh ăn sâu vào thịt, chỉ cần búa và trạm, chỉ cần nghiến chặt răng là chặt đứt! Dù sao cũng phải về nhà.

Anh không dám đi trên đường lớn, vẫn phải men theo lối nhỏ hôm chạy trốn lần ngược từng bước, nghe ngóng động tĩnh, đi giật lùi mà về. Anh tự an ủi, cảnh sát người ít mà địa bàn thì rộng, quần chúng thì không ưa họ, dù có gặp cảnh sát, mình vẫn chạy thoát. Súng của họ cũng hơi sợ, hôm qua họ nã hai phát, mình chết lăn ra đấy thì số ăn mày! Có điều, trình độ của họ cũng thường, ban ngày còn bắn không trúng, huống hồ ban đêm!

đã về đến ngõ nhà mình mà anh vẫn hồi hộp. Nhà cửa xung quanh và rừng cây quen thuộc. Anh ẩn trong rừng, nín thở quan sát tỉ mỉ sân nhà mình. Sân yên tĩnh. Góc sân giun đất kêu, những con dơi bay ra bay vào qua cửa sổ. Anh nhặt cục đất ném về phía cửa sổ, viên đất rơi trúng chiếc chão vỡ đánh “bụp” một tiếng rất to. Trong nhà ngoài sân vẫn yên lặng. Anh ném một viên đá, vẫn lặng im. Để đảm bảo an toàn, anh lượn một vòng rộng, vòng ra sau nhà, men theo chân tường, lần đến dưới cửa sổ nghe ngóng, trong nhà có tiếng chộut kêu chít chít.

Anh yên tâm. Khi trở lại đầu ngõ, anh trông thấy những con vẹt màu sắc rực rỡ bay đầy ngõ và trong rừng.

Anh ngờ rằng, vẹt nhà Cao Trực Lăng sổ lồng. Con ngựa hồng chẳng bao giờ lớn, chạy như bay trong ngõ, bộ lông mượt toả ra mùi thơm quí phái.

Cửa buồng mở toang, anh sững người, nổi da gà. Vì mắt đã quen với bóng đêm, nên vừa bước qua ngưỡng cửa, anh trông thấy cửa buồng phía đông có một người đang đứng. Anh định bỏ chạy, nhưng anh nhận ra đằng sau mùi máu tanh tanh mà anh ngửi thấy, là cái mùi thân thiết nồng đậm của Kim Cúc. Giấc mơ dữ đêm qua trở lại như chớp, anh bám chặt khung cửa mới không ngã.

Anh tìm thấy diêm chỗ gần cửa bếp, hai tay đều run, anh quẹt đến lần thứ ba mới bén que gỗ. Trong ánh lửa chập chờn, anh trông thấy Kim Cúc treo lơ lửng dưới khung cửa, mặt tím đen, hai mắt lồi ra ngoài, lưỡi thè ra và cái bụng chữa vượt mặt.

Anh giơ hai tay như sắp sửa ôm Kim Cúc nhưng người anh lại đổ vật ra sau như một mảng tường đổ.