Bổn Cung Không Thể

Chương 73: Chỗ dựa




Hòa đàm được quyết định sẽ diễn ra dưới Nhạn Môn quan ở biên cảnh Sóc Châu.

Giờ Tỵ, đã có nhóm thứ ba sứ giả đưa thư dưới trướng Kỳ Viêm đến đây, báo cáo động tĩnh chi tiết trong doanh trướng đàm phán dưới Nhạn Môn Quan cho Kỷ Sơ Đào, nói rằng: “Bẩm điện hạ, sứ thần Bắc Yến đã đến doanh trường, có cần thuộc hạ hộ tống điện hạ đến đó hòa đàm trước không?”

Kỷ Sơ Đào nắm ngón tay, bình tĩnh đáp: “Hãy khoan, chờ một canh giờ sau hẵng báo lại.”

Sứ giả đưa thư đáp “Dạ” rồi nhận lệnh lui ra.

Phất Linh cẩn thận sửa sang lại dây cột áo choàng tuyết hồ cho Kỷ Sơ Đào, khó hiểu hỏi: “Ngày hòa đàm, vì sao điện hạ lại liên tục kéo dài canh giờ?”

Kỷ Sơ Đào cũng suy nghĩ kỹ càng rồi mới đưa ra quyết định này. Nàng mỉm cười ôn tồn đáp: “Ngày thường ngươi rất thông minh, sao đến chuyện này lại không nghĩ ra vậy? Hòa đàm chẳng những là xem lợi thế của hai nước mà còn là sự đánh giá tâm lý của hai nước. Nước chiến thắng thì phải có phong thái của nước chiến thắng, nên để Bắc Yến chờ chúng ta, chờ đến khi họ thấp thỏm nôn nao không kiên nhẫn rồi lại hòa đàm, mới gọi ‘chưa chiến mà đã đánh bại lòng người’.”

Lúc lên đường, Kỷ Sơ Đào vốn định làm một “tấm biển” im lặng, đại biểu cho Hoàng thất Đại Ân chứng kiến hòa đàm hoàn thành là được. Sau khi đến quân danh vùng bắc biên cương này, thấy cát vàng nguy nga, núi non mênh mông, từng bước bước qua con đường hòa thân ngày xưa của nhị tỷ, nàng mới rõ ràng cảm nhận được gánh nặng trên vai, ấy là trách nhiệm của thân là Đế Cơ.

Giang sơn mênh mông tươi đẹp nhường ấy, sẽ khiến người ta kìm lòng không đậu muốn làm gì đó vì nó.

Ngày xưa nàng chán ghét nhất là trò đùa bỡn lòng người, nếu có thể trở thành lưỡi dao bảo vệ Đại Ân, nàng tình nguyện cầm lên, cùng chiến đấu với Kỳ Viêm.

Thời gian chờ đợi nói dài cũng không dài lắm, nói ngắn cũng không ngắn lắm.

Kỷ Sơ Đào chú ý tới tuyến hương trong lư hương, mãi đến khi tro tàn cuối cùng rơi xuống, nàng mới hít sâu một hơi, lấy lại bình tĩnh ra lệnh: “Tuyên sứ thần Đại Ân của ta, xuất phát!”

Gió bắc giá lạnh, lá cờ tung bay, xe ngựa của sứ đoàn trang nghiêm chuẩn bị lên đường.

Dưới Nhạn Môn quan, Kỳ Viêm mặc chiến giáp đen nhánh, áo choàng lông quạ, đã dẫn ba ngàn tinh binh đứng chờ từ lâu.

Kỷ Sơ Đào vén rèm xe lên thì đúng lúc thấy Kỳ Viêm giục ngựa chạy đến, chiến giáp tỏa sáng dưới ánh mặt trời sa mạc.

Hắn khống chế tọa kỵ hí lên, nhìn Đế Cơ ăn mặc trang điểm hào phóng xinh đẹp, nói: “Đừng sợ.”

Trong lòng Kỷ Sơ Đào ấm áp, phì cười nói: “Bổn cung vốn không sợ nhưng chàng cố ý chạy đến đây nói một câu như vậy, ngược lại khiến bổn cung thấy lo âu mất rồi.”

Kỳ Viêm nhướn này trông hơi lưu manh, bình tĩnh nói: “Chờ lát nữa điện hạ muốn nói gì thì cứ nói, không cần lo lắng, chỉ cần là vùng đất mà thần trấn thủ, đều là sân nhà của điện hạ.”

Kỷ Sơ Đào đáp: “Ừ.”

Dưới Nhạn Môn quan là một chiến trường cực kỳ rộng lớn, cửa thành nguy nga, doanh trướng được xây dựng tạm thời phân tán như nấm.

Người hầu vén rèm lên, than lửa ấm áp phả vào mặt. Kỷ Sơ Đào che giấu vẻ mặt của mình, mang theo phong thái uy nghi trang trọng của một đế quốc bước vào doanh trướng.

Trên bàn khách, quả nhiên sứ thần Bắc Yến đã nôn nóng không thôi, vỏ hạt dưa vương vãi đầy bàn, đang cãi cọ ồn ào gì đó.

Thấy sứ thần Đại Ân bước vào lều, đám sứ thần Bắc Yến sửng sốt tập thể, ánh mắt chuyển qua chuyển lại giữa Kỷ Sơ Đào và Kỳ Viêm, bỗng nhiên phát ra tiếng cười vang dội.

Một gã đại hán để râu quai nón nói với Kỳ Viêm bằng tiếng Hán lơ lớ: “Kỳ Tướng quân, Đại Ân các ngươi hết người rồi hả? Sao hai nước hòa đàm mà còn dẫn theo nữ nhân với tiểu tử miệng còn hôi sữa đến đây?”

Kỳ Viêm liếc nhìn hắn ta rồi quay sang ôm quyền hành lễ với Kỷ Sơ Đào, nghiêm túc nói: “Thần Kỳ Viêm, chủ tướng Trấn Quốc quân, cung thỉnh Vĩnh Ninh Trưởng Công chúa điện hạ, An Khê Quận Vương điện hạ ngồi vào ghế trên!”

Chúng sứ thần Đại Ân cũng nhao nhao hùa theo: “Cung thỉnh Vĩnh Ninh Trưởng Công chúa điện hạ, An Khê Quận Vương điện hạ ngồi vào ghế trên!”

Kỷ Sơ Đào cười thầm trong lòng, biết Kỳ Viêm đang làm chỗ dựa cho mình đấy!

Người Bắc Yến xưa nay vừa hận vừa sợ người của Kỳ gia, dân gian Bắc Yến thậm chí còn khắc họa Kỳ Viêm thành một hung thần có ba đầu sáu tay, mặt mũi dữ tợn, có thể thấy được sức đe dọa của hắn đối với quốc gia này. Mà nay, “hung thần” ấy lại dùng tư thế cực kỳ thần phục, hành lễ với một thiếu nữ xinh đẹp thoạt nhìn mảnh mai, cung kính cứ như dã thú bị dỡ bỏ nanh vuốt mà thuần phục…

Thân phận của Kỷ Sơ Đào bị ẩn giấu trong danh sách sứ đoàn, sứ thần Bắc Yến bị đánh cho trở tay không kịp, lại thấy thái độ cung kính của Kỳ Viêm, tiếng cười của chúng thoáng chốc ngưng bặt, nhìn Kỷ Sơ Đào bằng ánh mắt nghi ngờ thấp thỏm.

Thủ lĩnh của sứ đoàn Bắc Yến là một người thanh niên khoảng chừng ba mươi tuổi, mũi cao mắt sâu, đôi mắt có màu hổ phách rất nhạt, trông im lặng như thể bi quan chán đời trong đám nam nhân thô lỗ của Bắc Yến.

Hắn ta là người hoàn hồn đầu tiên, nhìn Kỷ Sơ Đào bằng ánh mắt đầy ẩn ý rồi đứng dậy hành lễ: “Sứ thần Bắc Yến Mục Lặc Tây, bái kiến Đại Ân Tam Công chúa điện hạ!”

Đám sứ thần Bắc Yến còn lại cũng cuống quýt đứng dậy, nắm tay trái đặt trên trái tim, cúi đầu nói: “Bái kiến Đại Ân Tam Công chúa điện hạ!”

Tất cả đều im phăng phắc, thể hiện sự kính trọng hoàn toàn trái ngược với tiếng cười ầm ĩ lúc nãy.

Kỷ Sơ Đào chỉ khẽ gật đầu đáp lại rồi vung tay áo ngồi ngay ngắn trên ghế chính thượng khách, quay sang nói với Mục Lặc Tây ngồi ghế bên cạnh: “Thừa tướng đại nhân.”

Trước khi lên đường, nàng đã nắm giữ thông tin của các sứ thần Bắc Yến rõ như lòng bàn tay, tất nhiên nhận ra nam tử trẻ tuổi thoạt nhìn chán đời như thể không có tinh thần này chính là tân Thừa tướng của Bắc Yến, người có danh xưng “Rắn mắt vàng”.

Sau khi quân đội bại trận, Bắc Yến vẫn có thể cầm cự được lâu như vậy, không thể không kể đến công lao của vị Thừa tướng đại nhân này, Kỷ Sơ Đào tất nhiên sẽ chú ý hắn ta nhiều hơn những người khác.

Trông Mục Lặc Tây có vẻ hơi kinh ngạc, đáp lại bằng tiếng Hán tiêu chuẩn: “Không ngờ Tam Công chúa điện hạ lại nhận ra tại hạ, quả là vinh hạnh của tại hạ! Công chúa người Hán đều xinh đẹp nhường này nhưng sao vương tử người Hán lại…”



Đôi mắt màu hổ phách nhạt của Mục Lặc Tây quay sang nhìn An Khê Quận Vương Kỷ Thâm, nở nụ cười một tiếng.

Gã râu quai nón lúc trước lập tức nói: “Ngày xưa Đại Ân Nhị Công chúa của các ngươi sang đây hòa thân, gả cho Hoàng đế anh hùng nổi tiếng lẫy lừng của chúng ta! Nay Minh Châu Quận chúa của chúng ta sang hòa thân, các ngươi lại chọn một tên tiểu tử da trắng gầy yếu thế này? Tam Công chúa điện hạ, quốc gia của các ngươi không có nam nhân chân chính hả? Chẳng những để nữ nhân cầm quyền mà ngay cả vương tử cũng giống hệt nữ nhân!”

Sứ thần Bắc Yến cứ như tóm được trò cười, nhao nhao kêu lên: “Đúng đấy đúng đấy, ở Bắc Yến chúng ta, nữ nhân chỉ có thể ở nhà sinh con!”

Đây là định ra oai phủ đầu à?

Kỷ Sơ Đào và Kỳ Viêm đưa mắt nhìn nhau, trong lòng thoáng chốc yên ổn, không chút sợ hãi nói: “Chư vị sứ thần, Bắc Yến các ngươi chưa từng được học sách thánh hiền, e rằng không biết văn hóa Trung Nguyên bác đại tinh thâm. Hãy để bổn cung giải thích cho các ngươi, nếu hai nước giao bang bình đẳng thì mới gọi là ‘hòa thân’; mà quốc gia thua trận chủ động đưa mỹ nhân đến nước thắng trận, thì gọi là ‘dâng tù binh’. Cho nên năm đó nhị tỷ của ta được gọi là ‘hòa thân’, còn Quận chúa của các ngươi thì là ‘tù binh’, sao có thể giống nhau?”

Bắc Yến nhất thời bị nghẹn họng, Mạnh Tôn vỗ tay trước tiên, khen ngợi: “Điện hạ anh minh!”

Bên cạnh, khóe miệng Kỳ Viêm nhếch lên một độ cong không quá rõ ràng.

Kỷ Thâm – người vừa bị coi là bia ngắm châm biếm một trận – khẽ nhíu mày, tiếp lời Kỷ Sơ Đào, bình tĩnh ung dung nói: “Chư vị nói rằng Hoàng đế của các ngươi là anh hùng, còn nói nữ tử chỉ có thể ở nhà giúp chồng dạy con nhưng chư vị đừng quên rằng, anh hùng của các ngươi đã bị Đế Cơ nước ta đạp dưới lòng bàn chân, binh bại thân chết, ngay cả Hoàng tử duy nhất cũng bị bắt đến Đại Ân làm con tin. Như vậy xem ra, chẳng lẽ nam tử quý quốc tự nhận là còn không bằng cả nữ tử?”

“Ngươi!” Sứ thần của đối phương bị chọc giận, trợn mắt phồng má.

Kỷ Thâm bình thường im lặng ít nói nhưng một khi đã lên tiếng thì chỉ có khiến mọi người kinh ngạc. Đối mặt với sứ thần Bắc Yến hung ác dữ tợn, hắn ta không hề sợ hãi chút nào, nói đến chỗ kích động, hắn ta đỏ mặt tía tai chống tay lên bàn, nghiêng người gầm lên: “Không sai, Đại Ân Đế Cơ của chúng ta như nhật nguyệt trên cao, tỏa sáng vạn trượng! Nếu chư vị muốn lấy lòng chúng ta thì nên đưa Hoàng tử sang đây ở rể, chứ không phải là đưa nữ tử số khổ sang đây!”

Không chờ người Bắc Yến lên tiếng, Kỷ Thâm lại thản nhiên “ồ” một tiếng, bâng quơ nói tiếp: “Suýt nữa thì quên, Hoàng thất các ngươi làm gì còn nam nhân, Hoàng tử duy nhất còn sống sót hiện nay đang ngồi trong xe chở tù của Đại Ân.”

Sứ thần Bắc Yến tự rước lấy nhục, vốn định bóp hai quả hồng mềm, không ngờ lại đá trúng “ván sắt”, sắc mặt của chúng thoáng chốc biến thành màu đỏ rồi lại ngả sang màu trắng, cực kỳ phấn khích.

Kỷ Thâm lưu loát trào phúng xong, mới khôi phục dáng ngồi ngay ngắn, dồn khí đan điền, mỉm cười nói: “Thất kính.”

Sắc mặt thay đổi cực nhanh, khiến Kỷ Sơ Đào mắt tròn xoe há hốc miệng, ngay cả đám sứ thần Đại Ân như Mạnh Tôn cũng nhìn về phía Kỷ Thâm bằng ánh mắt tỏa sáng lấp lánh, tràn đầy sùng bái cung kính.

Sắc mặt của Mục Lặc Tây không còn lạnh nhạt chán nản như ban đầu, ánh mắt hơi nặng nề, ngồi vắt chéo chân nói với Kỷ Sơ Đào: “Quý quốc có khí hậu như thế nào thì mới nuôi dưỡng được hạng người miệng lưỡi sắc bén nhường này? Hôm nay xem như tại hạ được đại khai nhãn giới, thụ giáo.”

Kỷ Sơ Đào vui sướng vô cùng, nhịn cười khiêm tốn nói: “Nhân tài nước ta xuất hiện lớp lớp, An Khê Quận Vương chẳng qua chỉ là người không đáng chú ý nhất trong số đó, Thừa tướng khen ngợi quá lời.”

Mục Lặc Tây hiểu rõ ẩn ý trào phúng trong lời nói này, hắn ta không giận mà ngược lại còn mỉm cười: “Ồ, thật không? Vậy nếu không ngại thì hai bên đều thu hồi thần thông, bắt đầu đàm phán thôi.”

Lúc đàm phán lại là một phen giương thương múa kiếm, hai bên đều đổi nước trà mấy lần.

Bắc Yến không muốn cắt đất, lại chủ động đưa ra yêu cầu trở thành phiên bang của Đại Ân, sẵn lòng nhận Thiên tử của Đại Ân là cha là huynh, hằng năm tiến cống một lượng bò dê, ngựa và hương liệu nhất định…

Đối với Đại Ân mà nói, đây là điều rất có sức hấp dẫn nhưng Kỷ Sơ Đào cứ thấy là lạ chỗ nào.

Miếng mồi càng thơm ngon thì càng có khả năng ẩn giấu cạm bẫy.

Bên phía sứ thần Đại Ân đã hơi động lòng, tất cả đều quay sang nhìn về phía Kỷ Sơ Đào, chờ nàng đưa ra quyết định.

Kỷ Sơ Đào không sốt ruột quyết định ngay, ánh mắt giao tiếp với tầm mắt sâu thẳm của Kỳ Viêm. Chốc lát sau, nàng bỗng nói: “Hôm nay đã trễ rồi, chư vị sứ thần đều đã mệt mỏi, chi bằng tạm thời nghỉ ngơi một đêm, ngày mai hẵng bàn bạc tiếp.”

Hành trình đàm phán lại kéo dài một ngày, sứ thần Bắc Yến đều nhao nhao ầm ĩ.

Mục Lặc Tây lại không sốt ruột không kiêu ngạo, cười nói với Kỷ Sơ Đào: “Trong văn hóa của người Hán các ngươi có câu tên là ‘được làm vua thua làm giặc’. Nay các ngươi là dao thớt, chúng ta là thịt cá, chúng ta cam nguyện tự hạ mình làm nước phụ thuộc phụng dưỡng quý triều đình, chỉ để đổi lại huyết mạch duy nhất của Hoàng thất Bắc Yến. Vụ mua bán này chỉ lời chứ không lỗ, Tam Công chúa điện hạ còn gì phải e ngại nữa?”

Trước khi vào lều hòa đàm, Kỳ Viêm đã từng nhắc đến xuất sứ của biệt danh “Rắn mắt vàng”, chẳng những vì màu sắc đôi mắt của Mục Lặc Tây mà còn vì thủ đoạn tàn nhẫn máu lạnh của hắn ta, tựa như loài rắn độc trong sa mạc, bình thường đều im lặng ẩn nấp, khi ngươi thả lỏng cảnh giác vì cho rằng nó đang phơi nắng thì nó sẽ nhào lên cắn vào cổ họng của ngươi bằng tốc độ nhanh như tia chớp.

Nghĩ đến đây, Kỷ Sơ Đào mỉm cười đánh trả: “Trong văn hóa người Hán của chúng ta cũng có một câu, nói rằng ‘tham mồi thì mắc câu”, cẩn thận kẻo lật thuyền muôn kiếp.”

Mục Lặc Tây khẽ híp đôi mắt màu hổ phách: “Nếu hai nước vẫn còn cơ hội kết thân thì tại hạ nhất định sẽ liều mạng yêu cầu cưới được mỹ nhân thú vị như điện hạ!”

Ánh mắt lạnh lẽo bắn phá, bầu không khí thoáng chốc cứng đờ, Kỷ Sơ Đào không cần nói cũng biết khí thế mạnh mẽ lạnh lẽo này tỏa ra từ ai.

Chịu đựng áp bách đến từ Kỳ Viêm, Mục Lặc Tây cười ha ha, đứng dậy đặt tay lên ngực hành lễ: “Mong Tam Công chúa hãy suy nghĩ thật kỹ đề nghị của chúng ta… Hẹn gặp lại vào ngày mai, điện hạ xinh đẹp!”

Mặt trời lặn xuống núi tây, ánh nắng chiều tàn như mạ màu son lộng lẫy cho những dãy núi trùng điệp chốn biên cương.

Tiếng trống đã ngừng, cửa thành mở ra, đám sứ thần Bắc Yến lui ra ngoài quan cắm trại.

“Vì sao Tam điện hạ không đồng ý cho Bắc Yến trở thành phiên bang phụ thuộc nước ta?” Sau khi người Bắc Yến rời đi, một thuộc hạ của Mạnh Tôn vội vàng hỏi: “Thu phục Bắc Yến, cũng là ý của Đại điện hạ.”

Kỷ Sơ Đào còn chưa lên tiếng thì Kỳ Viêm đứng bên cạnh đã lạnh lùng nói: “Bắc Yến hoang vu, dân phong hung hãn, chỉ cần yêu cầu chúng lùi về sau núi Đại Âm, cắt mười hai tòa thành trì từ Nhạn Bắc đến núi Đại Âm cho Đại Ân là được rồi.”

“Cắt đất chỉ là lợi ích rất nhỏ, sao đó thể đánh đồng với việc biến địch quốc thành nước phụ thuộc?” Sứ thần kia cãi lại: “Chưa kể Tướng quân chỉ là võ tướng, đừng đi quá giới hạn, nhúng tay vào nội vụ của sứ đoàn!”



Ánh mắt Kỳ Viêm lạnh lẽo, cười khẩy: “Tầm nhìn hạn hẹp.”

Sứ thần kia tức khắc rụt cổ, quay sang chắp tay với Kỷ Thâm: “Mong Quận Vương suy xét rồi quyết định.”

Kỷ Thâm nhìn về phía Kỷ Sơ Đào. Kỷ Sơ Đào hiểu ý hắn ta, ra lệnh: “Chuyện này không đơn giản như chỉ mua một bộ xiêm y, không cần sốt ruột quyết định, còn phải bàn bạc kỹ hơn mới được.”

Sau khi mọi người giải tán, Kỷ Sơ Đào bước lên tường thành một mình để giải sầu.

Cát vàng ngàn dặm mênh mông, núi non biên cương sừng sững như kiếm, Kỷ Sơ Đào nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc, không cần ngoảnh đầu lại cũng biết là ai.

“Nhị tỷ từng kể, năm xưa tỷ ấy đã từng có ý định đào hôn ở nơi này. Đêm đó có rất nhiều người chết nhưng cuối cùng, người cứu tỷ ấy, gánh vác tội nghiệt chết thay tỷ ấy lại là tiểu thái giám mà ngày thường tỷ ấy chán ghét nhất.”

Nói rồi, Kỷ Sơ Đào đưa mắt nhìn về phía cồn cát nơi xa: “Nhưng Kỳ Viêm chàng xem, tám năm sau, ta lại đứng trên mảnh đất này, song không hề nhìn thấy dù chỉ là một chút vết máu hay hài cốt năm xưa.”

“Đất cát không có ký ức, chỉ có lòng người mới nhớ họ.”

Kỳ Viêm cởi áo choàng rồi khoác lên người Kỷ Sơ Đào, vừa cột dây vừa hỏi nàng: “Nàng có ghét những thứ này không?”

Sửng sốt thật lâu, Kỷ Sơ Đào mới hiểu ý của hắn là những lời ngươi lừa ta gạt trên bàn đàm phán.

Nàng lắc đầu, cười nói: “Ngày xưa bổn cung ghét nhất mấy thứ đó, cảm thấy lòng người khó dò… Nhưng bây giờ bổn cung không sợ nữa, bởi vì bổn cung có con dân mà mình muốn bảo vệ, còn có…”

Dừng lại trong chốc lát, nàng khẽ nỉ non: “Còn có chàng ở bên cạnh ta.”

Khóe miệng Kỳ Viêm hơi nhếch lên, lại bị hắn cố tình đè xuống.

Hắn xoay người đứng kề vai sát cánh bên Kỷ Sơ Đào, giọng nói lạnh lùng trở nên ôn hòa hơn nhiều, nói với nàng rằng: “Ta không muốn Bắc Yến trở thành nước phụ thuộc của Đại Ân, bởi vì bên ngoài Bắc Yến còn có Tây Lương như hổ rình mồi. Bắc Yến không thể chống lại cả hai quốc gia nên mới lùi một bước, muốn kết giao với Đại Ân. Nếu Đại Ân nhận Bắc Yến làm nước phụ thuộc thì Bắc Yến nhất định sẽ mượn cớ này để cầu xin Đại Ân xuất binh giúp đỡ chúng bình định Tây Lương.”

Thì ra là vậy!

Kỷ Sơ Đào hiểu rõ: “Nước ta quy định, quân vương có trách nhiệm bình định chiến loạn giúp phiên quốc. Nói cách khác, Mục Lặc Tây dùng chiêu ‘gắp lửa bỏ tay người’ này, là để giáo mác của Tây Lương quay sang chĩa về phía Đại Ân!”

Kỳ Viêm gật đầu: “Những thứ như bò dê, hương liệu tiến cống hằng năm mà Mục Lặc Tây nói, cộng lại cũng chỉ cùng lắm là tám chín vạn lượng bạc mà thôi. Nếu nước ta xuất binh dẹp nội loạn, thôn tính Tây Lương giúp chúng thì hằng năm sẽ hao tổn quân phí hơn bốn mươi vạn lượng bạc. Sao có thể gọi là vụ mua bán ‘chỉ lời chứ không lỗ’? Rõ ràng là muốn vét sạch quốc khố của Đại Ân để may áo cưới cho chúng.”

Kỳ Viêm chỉ dùng hai ba câu nói đã đứng từ góc độ mà đám văn thần như Mạnh Tôn không thể nào hiểu rõ, giải thích rõ ràng lợi ích và thiệt hại trong chuyện này.

Kỷ Sơ Đào không lên tiếng, chỉ mỉm cười nhìn nửa khuôn mặt lạnh lùng của Kỳ Viêm, càng ngắm càng thích.

Nam nhân này từ trong ra ngoài đều vô cùng hợp ý nàng, rõ ràng lạnh lùng kiệt ngạo ngang tàng biết bao nhiêu, thế mà vẫn có thể dịu dàng săn sóc đến thế.

Cuối cùng Kỳ Viêm cũng nhận thấy ánh mắt chăm chú của nàng, cụp mắt hỏi: “Sao vậy?”

“Không có gì.” Kỷ Sơ Đào dời ánh mắt, thoải mái cười nói: “Chỉ là, ta rất thích chàng.”

Tia sáng cuối cùng của tà dương đã biến mất, vành tai của Kỳ Viêm lại hơi đỏ bừng, tựa như nơi đó đang lưu giữ ánh nắng cuối cùng của chiều hôm.

Hắn ngượng nghịu hắng giọng, vừa đặt tay lên tường thành khom lưng thì bỗng nhiên nói: “Điện hạ, khi nào ta mới có thể…”

Chờ mãi mà không thấy hắn nói tiếp, Kỷ Sơ Đào thắc mắc: “Mới có thể làm gì?”

Ánh mắt Kỳ Viêm như tỏa sáng, giọng nói khàn khàn: “… Ngủ với nàng.”

Kỷ Sơ Đào: “…”

Sắc trời như chia thành hai nửa, một bên kiều diễm, một bên tối tăm.

Dưới tường thành, hai sứ thần đi ngang qua nhìn hai hình bóng đứng nhìn nhau trên tường thành, hỏi: “Kỳ Tướng quân và Tam Công chúa đang thảo luận chuyện gì vậy nhỉ? Trông nghiêm túc thật đấy.”

“Chắc là chuyện đàm phán ngày mai.”

“Ủa, sao Tam Công chúa lại bỏ chạy?”



Hôm sau, trong doanh trướng.

Hôm qua vất vả chờ Kỷ Sơ Đào thật lâu, thấp thỏm nôn nóng bị Đại Ân hạ thấp uy phong. Hôm nay Bắc Yến rút kinh nghiệm, cố ý đến trễ một canh giờ.

Ai ngờ vừa vào lều thì đã thấy sứ đoàn Đại Ân yên tĩnh uống trà, dường như đã chuẩn bị sẵn sàng từ lâu. Kỷ Sơ Đào liếc mắt ra hiệu, Kỷ Thâm lập tức buông ly trà xuống, thúc giục: “Các ngươi đã đến rồi à? Vậy thì bắt đầu luôn đi.”

Người Bắc Yến còn chưa kịp hoàn hồn thì đã bị kéo vào trận đàm phán, vẫn bị đánh cho trở tay không kịp.