"Chuck!"
Không khí sau giờ chiều ngột ngạt vô cùng, trời hè hừng hực tỏa ra những tia nắng gắt, mùi cỏ khô và phân ngựa sực nức. Chuck nằm bò xuống đất, lén quan sát mẹ qua kẽ hở nho nhỏ của hàng cây thuốc lá rậm rạp. Mẹ đang nhìn quanh sân sau, một tay chống hông, tay kia giơ lên che ánh nắng chói chang.
"Charles Sinclair!" Mẹ lại gọi, giọng điệu có vẻ giận dữ hơn so với vài phút trước.
Cánh đồng thuốc lá quả là nơi trú ẩn tốt cho một đứa trẻ con, nó nín thở nằm im thin thít, cằm gần như chạm xuống mặt đất. Có con bọ cánh cứng đang từ từ bò trên mu bàn tay Chuck, quá ngứa, nhưng nó chỉ có thể quan sát bọ nhỏ dần chui xuống dưới tảng đá bên cạnh rồi biến mất. Đó là kỳ nghỉ hè năm lớp năm, Chuck và những đứa trẻ hàng xóm đều có niềm đam mê to lớn với trò trốn tìm, bất kỳ tên nhóc có thể trụ đến cuối cùng mà không bị tìm thấy sẽ trở thành kẻ chiến thắng. Chuck biết tất cả những đứa nhóc khác đều đã bị bắt, nó chính là đứa duy nhất còn lại, và rằng Billy Ếch Ộp sẽ kéo cả hội đi tìm nên nó phải thật cẩn thận, di chuyển có kế hoạch, không thể ở yên một vị trí quá lâu.
Đất ẩm mang cảm giác mát rượi, núp dưới bóng cây thuốc lá nơi không một tia nắng gắt nào tìm được đến, Chuck cứ vậy nằm dài, gối đầu lên cánh tay, dù sao áo khoác của nó cũng bẩn từ lúc bò ra khỏi lạch nước, có dính thêm chút bùn đất lên trên cũng chẳng khác gì. Cánh đồng thuốc lá yên tĩnh đến nỗi ngay cả tiếng "sàn sạt" khi cành lá chạm vào nhau cũng không thấy đâu. Mẹ bỏ cuộc, không gọi nó nữa. Mấy tên nhóc hàng xóm cũng không xuất hiện, bởi nếu có ở gần đây, Chuck sẽ nghe thấy tụi nó, đám nhóc đó quá ồn ào.
Thế nhưng, chẳng một ai đến tìm nó. Mặt trời dần đổ về tây, những cái bóng dài ra, móng vuốt của bóng tối lặng lẽ mò về phía cánh đồng. Chuck ngửa mặt lên trời, cẩn thận lắng nghe. Không gian im ắng này bắt đầu khiến nó sợ, không có tiếng trò chuyện, không có tiếng bước chân, không biết vì sao lũ gà ở sau sân không phát ra tiếng động, thậm chí còn không có tiếng động cơ xe tải, đáng ra giờ này phải có người lái xe đến thị trấn mua rượu hoặc vừa trở về từ thị trấn chứ? Chuck đứng lên, thận trọng quan sát xung quanh, cánh đồng thuốc lá trải dài mênh mông tưởng chừng như vô tận lại bị đường quốc lộ phía tây bắc cắt qua, mặt trời đỏ lửa giờ đây đã chìm về phía chân trời, tầng mây lơ lửng dưới thấp như ngâm trong biển máu. Ở đâu cũng không có người.
Nỗi sợ hãi đột ngột dâng trào khiến nó chạy thục mạng về phía ngôi nhà bên đường. Phiến lá rộng của hai hàng cây thi thoảng lại quệt vào mặt nó, bầu trời nhanh chóng tối sầm lại như thể mỗi bước nó chạy là một mảng sáng bị tắt theo. Căn nhà chẳng có ánh đèn, lúc Chuck chạy tới sân sau đã chẳng còn nhìn rõ vật gì nữa. Cánh cửa khép hờ khẽ đung đưa trong cơn gió lạnh của chạng vạng, phát ra tiếng kẽo kẹt chói tai.
"Mẹ ơi?" Giọng nó run rẩy, "Mẹ ơi? Ba ơi?"
Không một ai đáp lại. Ở đâu đó trên tầng hai có cánh cửa bị gió xô, đóng "sầm" một tiếng làm Chuck phát hoảng. Nó cứ do dự đứng trước hiên nhà, nhưng cánh đồng ngoài kia còn đáng sợ hơn ngôi nhà tối tăm, vậy là nó hít một hơi thật sâu, dò dẫm bước vào phòng khách, lần tìm công tắc trên tường, nhấn vài lần nhưng đèn không sáng. Ngoài cửa sổ, một vầng trăng tròn vành vạnh nhô lên, soi rọi bàn ghế, tủ đựng bát đũa, đồ chơi bừa bãi trên sàn nhà, ấm nước và đĩa ăn còn nguyên, nửa điếu thuốc chưa hút xong trong gạt tàn... cứ như chủ nhà vừa dọn đi một cách vội vàng. Chuck lao ra khỏi cửa, chạy sang nhà hàng xóm, tất cả đều tối tăm và vô hồn hệt vậy. Nó gọi tên đám bạn của mình, tất cả những người mà nó biết hoặc sẽ biết, nhưng vẫn không một ai đáp lại, chỉ có vầng trăng lơ lửng treo cao lạnh lùng nhìn xuống nó.
Chuck bật dậy, thở hồng hộc, tay hắn mò mẫm mặt bàn bên cạnh giường tìm công tắc bật đèn khiến cho đồ đạc rơi vãi lung tung. Lúc đó hắn mới nhận ra ngay cả áo khoác mình cũng chưa cởi mà lại trèo lên giường đi ngủ, mồ hôi lạnh thấm đẫm áo sơ mi bên trong. Louis đã rời đi trước do có nhiệm vụ hộ tống, để lại mảnh giấy viết nguệch ngoạc báo rằng anh sẽ quay lại vào khoảng bảy giờ sáng. Những ô cửa kính của ký túc xá rung lên cùng với tiếng ồn đến từ chiếc máy bay ném bom đêm Blenheim của Không quân Hoàng gia Anh, giờ đây đang ẩn mình trong bầu trời âm u, thanh âm xa dần, một chiếc khác lại bay đi, và rồi lại một chiếc khác nữa.
Chuck cởi áo khoác và áo sơ mi ướt đẫm ra, tròng tạm áo sơ mi khác cùng với áo len đã cũ nhưng sạch sẽ, cúi xuống nhặt mấy thứ rơi xuống mặt đất. Một chiếc cốc thép, hộp thuốc lá, mẩu bút chì ngắn và chiếc đồng hồ bị nứt mặt do đập xuống sàn, kim đồng hồ dừng lại ở bốn giờ hai mươi sáng. Khung ảnh mà Louis tặng thì chỏng chơ cách đó không xa, Chuck nhìn chằm chằm vào nó như thể đang đề phòng rắn độc, một lúc sau mới nhặt lên.
Do trước đó thường bị nhét trong túi áo nên tờ giấy báo trong khung ảnh có một nếp gấp rõ ràng, chiếc máy bay ném bom B-17 cũ đã bị loại bỏ kia nhìn như bị cắt làm đôi. Bên dưới động cơ lớn trong ảnh, Chuck đứng giữa Leo và Jody, cả ba đang mặc nguyên trang phục bay cồng kềnh. Chỉ có mỗi Jody mỉm cười trước ống kính, bàn tay đeo găng giơ lên. Leo vẫn luôn không có biểu cảm gì, Chuck thì trông có vẻ hơi ngạc nhiên, như thể thợ chụp ảnh không đợi hắn chuẩn bị sẵn sàng mà đã bấm nút chụp luôn. Bài báo có tiêu đề:
REGENBURG ĐẠI BẠI DƯỚI TAY CÁC CHÀNG LÍNH TRẺ ĐẾN TỪ HOA KỲ!
Chuck mở ngăn kéo ra, ném khung ảnh vào rồi đóng sầm lại.
–
Natalie đến ký túc xá vào một chiều chủ nhật lạnh giá của tháng mười một để thu dọn di vật của Leo, không nhiều, không đủ để chất đầy hai thùng giấy. Chuck giúp bê thùng đồ đặt vào trong xe, góa phụ bắt tay với hắn nhưng cũng chẳng nói gì thêm. Hắn chỉ có thể chôn chân tại chỗ nhìn theo chiếc ô tô rời khỏi căn cứ rồi biến mất trong làn sương lạnh giá.
Không có ai dặn Chuck phải làm gì với đồ đạc cá nhân của Jody, vậy nên hắn không chạm vào bất cứ thứ gì và tránh không ở ký túc xá càng lâu càng tốt. Đại đội Máy bay ném bom số VIII của Hoa Kỳ về cơ bản thì vẫn đang trong tình trạng ngừng hoạt động, ngày nào cũng rảnh rỗi tới mức khó chịu, Chuck đã cố gắng giết thời gian ở quán bar nhưng bầu không khí ở đó còn u ám hơn cả ở căn cứ. Thế là hắn đành phải dành cả ngày ở ngoài chơi với tiểu thư Cúc áo, dùng bánh mì làm phần thưởng để dạy cô nhóc mấy trò mới. Mặc dù đến hết ngày vịt con vẫn chưa học được cách nhặt đồ vật vừa ném ra nhưng đã hiểu được rằng Chuck gọi tên thì phải chạy đến, nó điên cuồng phi như bay trong tư thế muốn hất văng tất cả nhân viên mặt đất lúc đó đang có mặt ở nhà chứa máy bay, như thể cô nhóc vừa được trang bị động cơ phản lực tí hon ở dưới cánh.
Đến khi trời tối, hắn lẻn vào phòng Louis, giờ thì cũng chẳng có ai quan tâm chuyện hắn trở về muộn mà không có lý do. Nếu Louis không phải trực ban, họ sẽ trốn trong chăn chia sẻ một chai whisky, không cần cốc chén gì, cứ thế uống thẳng từ chai. Cái lạnh bao trùm khắp căn phòng, lan tới từ ô cửa sổ, len lỏi qua những vết nứt trên tường và dưới đất, dùng chăn làm lều, đèn bàn thì như ngọn lửa sắp tàn, họ thì thầm trò chuyện mà chẳng làm phiền đến màn đêm. Những đêm Louis có nhiệm vụ ném bom, Chuck buồn chán đi đi lại lại trong căn phòng nhỏ, ngồi trên ghế, lúc sau lại nằm xuống giường, nhìn đồng hồ, đếm từng giờ rồi ngủ thiếp đi trong vô thức. Louis thường trở về vào sáng sớm, rùng mình vì lạnh, lặng lẽ cởi áo khoác, leo lên giường và chui vào vòng tay của Chuck.
"Chào buổi tối, chỉ huy." Chuck nhích người, ôm Louis chặt hơn.
"Chào buổi sáng."
"Mọi việc vẫn thuận lợi chứ?"
"Vô cùng thuận lợi."
Thế nhưng cả hai đều biết rằng sự thật không phải như vậy, những cuộc không kích lên Berlin của Không quân Hoàng gia Anh gần như không có hiệu quả gì, dẫu rằng cảnh báo phòng không ở các địa điểm mục tiêu mỗi ngày đều vang lên liên tục không ngừng nghỉ từ tối ngày 18 tháng 11 đến hết cả mùa đông. Lượng máy bay ném bom chịu thiệt hại của Anh cũng tăng không ngừng, khiến cho việc Đại đội Máy bay ném bom số VIII của Hoa Kỳ duy trì kỳ nghỉ và từ chối trở lại chiến trường có phần vô lý. Vậy là qua năm mới, Bộ chỉ huy liên hợp đã chỉ đạo tái cơ cấu các đội máy bay ném bom rời rạc và chắp vá các phi hành đoàn thiếu người lại với nhau. Chuck được giao cho một chiếc B-17 mới có tên là Khúc Hành Ca Của Lôi Điểu¹, phi công trước đây đã hi sinh trong trận chiến Ngày thứ Năm Đen tối – thám trắc mục tiêu và liên lạc viên cũng vậy – chỉ có hoa tiêu và xạ thủ súng máy kịp nhảy dù nên vẫn còn sống. Vì phòng của Chuck còn hai giường trống nên khi hai người họ nhận lệnh chuyển sang, hắn phải đóng gói đồ đạc của Jody, cất gọn trong thùng ở góc tường để nhường chỗ cho những người bạn cùng phòng mới.
"Tối mai tôi không tới đây với em được."
Louis kéo chăn đắp cho cả hai người. Họ vừa làm tình xong, mồ hôi nhễ nhại, giờ mới bắt đầu cảm thấy lạnh. "Bạn cùng phòng mới chuyển vào rồi?"
"Ừm, sớm muộn gì họ cũng sẽ phát hiện sự thật là tôi không ra ngoài chỉ để viết thơ dưới ánh trăng."
"Anh chuẩn bị có nhiệm vụ mới với họ?"
"Hôm qua vừa bay thử, may mà ít nhất tôi vẫn còn nhớ cần điều khiển ở đâu."
"Thế phi hành đoàn mới thì sao?"
"Cũng được."
"Chỉ "được" thôi sao?"
"Họ rất tuyệt, chỉ là..." Chuck ngập ngừng, "chỉ là họ không phải Leo và Jody."
"Rồi sẽ quen dần thôi, không quen nổi thì anh cũng đâu có lựa chọn nào khác đâu, đúng không?" Louis trở mình, quay lưng về phía hắn, "Dù sao thì chỉ cần hoàn thành một nhiệm vụ nữa thôi là anh có thể về nước mà? Nhiệm vụ thứ hai mươi lăm."
"Chắc là tôi sẽ không về nước đâu."
Louis lại quay sang, chống tay xuống đệm nhổm dậy nhìn Chuck, cũng vì động tác này mà hơi lạnh theo đó len lỏi vào trong chăn: "Anh nói "không về nước" là sao?"
"Là tôi sẽ tiếp tục phục vụ tại Đồi Biggin."
"Anh nên về nước đi."
"Hửm? Tôi cứ nghĩ rằng khi biết tin tôi định ở lại em sẽ vui cơ đấy."
"Em vui, nhưng mà," Louis mím môi, sắp xếp lại từ ngữ, "nơi này không an toàn."
Chuck thiếu điều bật cười thành tiếng, "Cảm ơn nhé, em mà không nói thì tôi còn tưởng đây là một khu nghỉ dưỡng ấy chứ."
"Ý em là, nếu anh trở lại Hoa Kỳ, ít nhất em sẽ không phải sợ hãi thế này." Louis khẽ chạm vào vết sẹo ở khóe mắt trái của hắn, "Anh rất giỏi khiến người ta lo lắng đấy, Trung sĩ Sinclair."
"Chỉ huy, em mới là người mỗi đêm đều lái Spitfire bay lượn ở eo biển mà."
"Em không muốn tranh luận với anh xem nhiệm vụ nào nguy hiểm hơn đâu, Charles. Suy nghĩ kỹ một lần nữa nhé, được không? Coi như là vì em đi. Và nếu anh không phiền, tiện thể tắt đèn giúp em nhé, mệt ghê."
Chuck muốn thảo luận tiếp về vấn đề "chúng ta thì sao", nhưng vấn đề này chắc chắn liên quan tới tương lai, mà tương lai hắn có thể thấy bây giờ chỉ là một thế giới chìm trong khói lửa chiến tranh. Đó là lý do tại sao không một phi công nào muốn nói về "tương lai", hai từ này quá xa xỉ so với họ. Chuck tắt đèn, ôm Louis từ phía sau, hôn lên gáy anh, nhắm mắt lại và lắng nghe tiếng tích tắc của đồng hồ trong bóng tối.
Đêm đó, Chuck không còn mơ thấy cánh đồng thuốc lá nữa.
–
Nhiệm vụ đánh dấu ngày trở lại chiến trường của Chuck theo kế hoạch là ngày 24 tháng 1 năm 1944, thế nhưng hôm ấy mưa rơi lạnh ngắt, bờ biển Đông Anglia bị bao phủ bởi những tầng mây và sương mù dày đặc. Các đội gần như không thể bay được trong thời tiết như vậy dưới bầu trời đen đặc, cuối cùng lại nhận lệnh trở về điểm xuất phát, nhiệm vụ bị hủy bỏ. Các phi công lạnh run được trở về ký túc xá và "đợi cho đến khi có thông báo mới". Dù không ai nói ra nhưng Chuck chắc chắn rằng những người khác cũng cảm thấy nhẹ nhõm hệt như hắn, đặc biệt là "Hươu Cao Cổ".
Hươu Cao Cổ là xạ thủ súng máy của Khúc Hành Ca Của Lôi Điểu, giờ đang nằm ở giường của Leo, Chuck không biết tên thật của cu cậu là gì, chỉ biết cái biệt danh rõ là mỉa mai này đích xác nhằm vào chiều cao 1 mét 57 của cậu ta, mặc dù hợp để chui vào tháp pháo dưới thân nhưng đồng thời cũng hợp để bị cười nhạo. Ngoài ra còn có Trung sĩ Flint nằm ở giường của Jody, người mà Chuck không biết tên và không buồn hỏi.
Phi hành đoàn mới không phải là điều duy nhất mà Chuck phải tập làm quen, vì các máy bay tiêm kích tầm xa được mong chờ đã lâu của Không lực Lục quân Hoa Kỳ cuối cùng đã hạ cánh xuống Đồi Biggin dưới những cơn mưa và trận tuyết tháng hai. Những máy bay P-51 Mustang hoàn toàn mới này có một thùng nhiên liệu cực lớn, đủ để hỗ trợ máy bay ném bom cả lượt đi và lượt về trên quãng đường tiến sâu vào nước Đức. Hơn một nửa phi công Mustang đều là tân binh từ Mỹ qua, phấn khích và đầy năng lượng, hệt như một bầy chó săn nóng lòng được nếm thử giọt máu đầu tiên. Chuck không khỏi băn khoăn liệu hai năm trước hắn trông có háo hức và đơn thuần như vậy không, sau khi nói với Louis câu này chỉ thấy anh phì cười một hồi, không trả lời.
Nhiệm vụ thứ hai mươi lăm của Chuck cũng chính là nhiệm vụ đầu tiên của đội Mustang. Mùng 2 tháng 2 năm 1944, gió ngừng thổi, mây lững lờ, một khoảng trời trong vắt hiện ra trước mắt, để tận dụng tối đa ánh sáng ban ngày, đội máy bay ném bom đã rời đi trước cả khi bình minh lên. Chuck nhìn quanh nhà chứa máy bay, thường thì Louis sẽ dùng các loại lý do khác nhau để đến đây, dõi theo máy bay của hắn cất cánh.
Dẫu vậy, hôm nay có lẽ là một ngoại lệ. Chuck lắc đầu, nuốt xuống nỗi thất vọng mơ hồ, chạy tới vị trí chiếc Khúc Hành Ca Của Lôi Điểu đang đậu ở đằng xa, chính hắn cũng chẳng biết mình đang mong đợi vào điều gì. Màn hình hướng dẫn lập lòe với tia sáng xanh hiện lên trước mắt hắn, Chuck nhìn đi chỗ khác, buộc mình tập trung vào bảng điều khiển và các bước cất cánh.
Sau bốn tháng, đội máy bay ném bom B-17 tại Đồi Biggin một lần nữa được cất cánh, tập hợp xong liền bay về phía đông dưới sự yểm trợ của các máy bay Mustang màu bạc, hướng tới Berlin.
–
Chú thích của người dịch (Translator's Note):
1. Gốc: 雷鸟, tiếng Anh: Thunderbird, tiếng Việt: Lôi điểu, là một sinh vật huyền thoại gắn liền với lịch sử và văn hoá của cộng đồng thổ dân Bắc Mỹ. Theo mô tả thì lôi điểu là một loài chim khổng lồ giống đại bàng nhưng có phép thuật tạo ra bão tố và sấm sét trên những vùng đất chúng bay qua.