“Lời của thiếpthân từng câu từng chữ đều là thật.” Quách Lạc La thị mặt đầy thương tâm nói: “Gia, Cảnh muội muội đã có lòng nghi ngờ, về sau chuyện của muộiấy thiếp thân liền ít nhúng tay vào thì hơn!”
“Phúc tấn nói gìvậy!” nắm chặt tay thê tử, Dận Tự xúc động nói: “Tính tình của nàng, gia còn không rất rõ ràng sao? Trong lúc Cảnh thị mang thai, tất cả mọiviệc có chuyện nào mà không phiền nàng tỉ mỉ chăm sóc chứ, nàng ta lạikhông có lòng cảm ơn, ngược lại còn nổi lòng nghi kỵ phúc tấn. Thật sựlà thứ có tâm tư mục thối, không đáng phải bận lòng.”
Thấy đượcvẻ ghét bỏ hiện lên trong mắt trượng phu, Quách Lạc La thị vừa lòng thỏa ý, cả người nhu thuận tựa vào trong lòng Dận Tự, khẽ nấc nói: “Thiếpthân có được những lời này của gia là đủ rồi, có lẽ Cảnh muội muội cũngbởi vì đang mang thai, dẫn đến tâm tư mẫn cảm, thích nghi kỵ lung tung.”
Dận Tự nghe vậy bèn nói: “Ừm, đợi đến lúc Cảnh thị sinh hạ xong, liền trực tiếp ôm đứa bé đến dưới gối phúc tấn đi.”
Quách Lạc La thị nhất thời ánh mắt sáng ngời, ngẩng đầu, dùng giọng nói vừamừng vừa sợ, lại không dám tin hỏi: “Thật, thật vậy chăng? Gia nói thậtsao?”
Dận Tự khẽ cười gật đầu, vươn tay lên vuốt ve mái tóc thê tử.
Quách Lạc La thị nước mắt lưng tròng, ôn nhu tựa vào trước ngực hắn, khóe môi đỏ tươi ở nơi không ai nhìn thấy, nhẹ nhàng nhếch lên.
Cứ nhưthế, thời gian dần trôi, trong chớp mắt đã hai tháng trôi qua, tiết trời dần trở lạnh, Khang Hy đế cũng từ Sướng Xuân Viên rục rịch chuyển về Tử Cấm thành, tất nhiên, Dận Chân cùng Hoằng Đán cũng theo về.
VìHoằng Đán bồi giá bên người Khang Hy đế trong một thời gian dài, chuyệnđó đã trở thành cái gai rất lớn đâm vào mắt không ít người, cho nên lúcquay lại ngự thư phòng học, mơ hồ bị người chung quanh bài xích. Bất quá thằng bé này hình như cũng không thèm để ý một chút nào, ngược lại cònnói với Điềm Nhi rằng, con vào thư phòng là học kiến thức từ những lãosư, những thứ khác căn bản không cần nghĩ nhiều.
Điềm Nhi nghexong trong lòng vừa vui mừng lại vừa chua xót, bất quá may mà còn cóThập Bát hoàng tử, vì có giao tình “cứu mạng” mà tình cảm hai người càng trở nên thân thiết hơn, hơn nữa, vì đề phòng những chuyện tương tự lạiphát sinh, Dận Chân cố ý chọn bốn bé trai làm thư đồng cho Hoằng Đán,đều là thiếu niên tầm mười một mười hai tuổi, có bọn chúng ở bên cạnhcùng chơi, trông chừng thằng bé, lo lắng trong lòng Điềm Nhi cũng vơi đi rất nhiều.
Ngày mùng mười tháng mười một, thích hợp đại hôn cưới hỏi.
Trời vừa hửng sáng, Điềm Nhi đã dẫn ba đứa con nhỏ đến phủ Nữu Hỗ Lộc, liềnthấy trong con hẻm Mạo Nhi*, trước một tòa nhà tam hợp viện mới được tân trang treo đầy lụa đỏ, trên cổng chính còn dán hai chữ hỷ thật lớn.Điềm Nhi vừa xuống xe ngựa, phụ thân mẫu thân và cả một đám họ hàng bằng hữu cùng đám hạ nhân nô tài đều rầm rập quỳ đầy sân.
(* hẻm Mạo Nhi: tên một con hẻm ở thành Bắc Kinh)
“Thỉnh Ung thân vương phúc tấn đại an.” Điềm Nhi vừa thấy vậy, tròng mắt lậptức đỏ lên, vội chạy nhanh tới đỡ cha mẹ dậy, hờn trách nói: “A mã,ngạch nương mau mau đứng lên. Đây không phải là muốn nữ nhi tổn thọsao?”
Cha mẹ Điềm Nhi đứng lên, cũng xúc động nhìn lại nàng.
“Tôn nhi vấn an ngoại tổ phụ ngoại tổ mẫu.”
Đám anh em Hoằng Thì, trông như ba con búp bê, lắc lư dập đầu hành lễ.
Cha Điềm Nhi mừng rơn đến cả chòm râu đen cũng dựng ngược lên ngay tại chỗ, cả người hứng khởi vui mừng nói: “Không được, không được, mấy tiểu a ca mau đứng lên.”
Điềm Nhi cười nói: “Có gì mà không được, bọn chúng còn phải dập đầu ngoại tổ phụ ngài nhiều hơn nữa mới phải.”
Cùng cha mẹ vừa nói chuyện vừa đi vào trong phòng, sau khi vào trong phòngmột lát, cha Điềm Nhi lại yêu thương chơi với bọn nhỏ, nhưng rốt cuộcbên ngoài còn tất bật công việc, bèn đi ra ngoài, chỉ để mẹ Điềm Nhi ởlại trò chuyện với nàng.
“Sao lại không thấy tân lang quan?” Điềm Nhi cười híp mắt hỏi.
“Đã đi rước dâu rồi.” Mẹ Điềm Nhi hân hoan hớn hở trả lời.
“Ngạch nương hôm nay thế mà đã khai tâm rồi nhé!” Điềm Nhi nhìn cả khuôn mặtđầy ánh nắng rạng rỡ của ngạch nương, nói: “Chẳng trách thế nhân luônnói sinh con trai tốt hơn sinh con gái, hôm nay cuối cùng con cũng biếttại sao?”
Mẹ Điềm Nhi cười liếc mắt qua.
“Từ ngạch nươnglà có thể thấy được a.” Điềm Nhi nghịch ngợm chớp chớp mắt: “Năm đó lúccon xuất giá, ngài là cao hứng, nhưng trong cao hứng lại mang theo không nỡ, cuối cùng lại vẫn khóc lên. Nhưng mà hôm nay, ca ca cưới vợ, trôngngài mặt đầy hồng quang, chỉ còn lại hưng phấn cũng không có nửa điểmthương cảm.”
“Nói thừa!” mẹ Điềm Nhi cốc đầu nữ nhi: “Gả nữ nhiđó là đưa người ra ngoài, cưới con dâu đó là thu người vào. Đương nhiênlà có chỗ bất đồng rồi.”
“Cho nên ta nói vẫn là sinh con trai tốt hơn, ít nhất sẽ không lỗ vốn a.” Điềm Nhi nhướn nhướn mày, cười hì hì nói.
Hai mẹ con nói chuyện tâm tình một hồi lâu, mãi đến khi bên ngoài truyềnđến tiếng pháo rung trời, thoáng chốc mẹ Điềm Nhi ánh mắt sáng ngời,Điềm Nhi bèn nói: “Mau đi đi, con dâu ngài sắp vào tới nơi rồi đó!”
Mẹ Điềm Nhi cười gật gật đầu, nói câu lập tức sẽ quay lại, rồi nhanh chóng đi ra ngoài.
Thật ra Điềm Nhi cũng muốn đi xem náo nhiệt một chút, chính là thân phận còn ở đó, nếu đi ra ngoài, khó tránh khỏi khiến người bên ngoài mất tựnhiên, ngược lại không còn vui vẻ. Vì thế đành đè nén tâm tư, ngồi chơicùng con trai. Nhón một miếng bánh hỉ đút vào miệng Hoằng Thì, tiểu tửkia híp mắt hài lòng, non nớt chu môi nói: “Ngạch nương, sao bên ngoàiđốt pháo vậy, đã sang năm mới rồi sao?”
Hoằng Thì từng thấy pháo hoa trong bữa tiệc cung yến trừ tịch, cho nên vừa nghe thấy tiếng pháo liền cho là sang năm mới.
“Không phải, hôm nay là ngày thành thân của Đại cữu cữu con. Vì để mừng hỉ sự, cho nên mới phải đốt pháo nga!”
“Thành thân, ngạch nương, thành thân là cái gì?” Lúc này, Hoằng Quân cũng chạy tới, đầy tò mò hỏi.
“Ừm, thành thân chính là cưới vợ, các con trưởng thành, cũng sẽ cưới vợđấy.” Điềm Nhi không hề cảm thấy giải thích đề tài phức tạp như vậy chomấy đứa trẻ chỉ hơn hai tuổi thì có gì không đúng, ngược lại còn nồngnhiệt nói: “Tính như vậy, về sau ngạch nương sẽ có bốn đứa con dâu rồi,hắc hắc hắc hắc.”
“Cưới vợ, cưới vợ, Hoằng Lịch cũng muốn cưới vợ.” Hoằng Lịch bé nhất, vỗ tay hoan hô, trên khuôn mặt bụ bẫm đầy nghiêm túc.
Chọc Điềm Nhi buồn cười không thôi.
Mấy mẹ con còn đang vui cười, một bóng người vén rèm đi vào, Điềm Nhi ngẩng đầu nhìn thấy không khỏi sửng sốt, lập tức mừng rỡ nói: “Gia sao lạitới đây.”
Chỉ thấy Dận Chân trong bộ áo mãng bào màu trúc xanh,eo mang bạch ngọc bội hình rồng, chân mang giày phiên vân đi vào, theosau lưng hắn còn có Hoằng Đán.
“Ừm, đón Hoằng Đán tan học về liền qua đây nhìn một chút.”
Điềm Nhi nghe xong liền biết là hắn là cố ý đến đây cấp cho nhà mình thểdiện, sắc mặt không khỏi mềm mại xuống, nhìn trượng phu nam nhân cườingọt ngào vài bận.
Sau khi đi vào tùy ý quét mắt nhìn chung quanh, Dận Chân nhướn mày hỏi: “Đây là khuê phòng của nàng?”
Điềm Nhi gật đầu cười, đưa cho hắn một ly trà xanh: “Dạ phải, cũng đã thậtnhiều năm thiếp thân không ở đây rồi, không ngờ a mã và ngạch nương cònsai người vẫn giữ yên như cũ.”
Dận Chân tùy ý đi đến trước mộtchiếc bàn vân án, thấy trên mặt bàn còn bày đầy sách tập viết chữ, không khỏi cầm một quyển lên mở ra xem, một giây sau, phi thường không kháchkhí mà xì một tiếng.
Điềm Nhi đỏ cả mặt, biết mình bị cười nhạo, không khỏi xoắn khăn tay, đi tới trước đoạt lại cuốn sách.
Ở trước mặt bọn nhỏ, Dận Chân vẫn lưu lại cho nàng chút thể diện, hai vợchồng trò chuyện một lát, cha Điềm Nhi liền đi vào khấu đầu, thỉnh DậnChân ra dự thính. Dận Chân gật đầu, chắp tay sau lưng dẫn Hoằng Đán đi.
Đến lúc dần tan tiệc, hai vợ chồng mới dẫn bọn nhỏ về phủ.
Cứ như thế, năm tháng thoi đưa, xuân đi thu đến, chớp mắt lại hai năm nữatrôi qua, lúc này đã là mùa xuân năm Khang Hy thứ 55, vì việc mở rộng“vụ lúa mùa đông” đạt được thành tích khả quan, lương thảo trong quốckhố tăng gấp đôi so với năm rồi, Khang Hy đế rất vui mừng, còn phong cho cha Điềm Nhi tăng thêm hai cấp, làm Tứ phẩm Viên ngoại lang, ngoài racòn ban thưởng cho một tòa phủ đệ.
Túi tiền đã ních đầy, việc tiến đánh Chuẩn Cách Nhĩ đã chuẩn bị thật lâu liền nhanh chóng được đưa lên nhật trình.
Một tháng sau, có triều thần dâng tấu, Cát Nhĩ Đan dẫn ba vạn binh vượt qua núi Hàng Ái Sơn hướng đến tộc người Khách Nhĩ Khách ở Mông Cổ, tấn công bộ tộc Thổ Tả Đồ, các bộ tộc của Khách Nhĩ Khách đều bị đánh bại tantác, Cát Nhĩ Đan lấy cớ truy kích, tiến thẳng đến Ô Lan Bố Thông cáchBắc Kinh 700 dặm. Khang Hy đế nghe vậy đại nộ, lập tức lấy danh nghĩa“Trừ gian diệt ác tận gốc”, bất chấp sự phản đối của chư đại thần, quyết định ngự giá thân chinh.
Ở mặt ngoài thì nhìn như Cát Nhĩ Đancướp đoạt thôn tính những bộ lạc khác ở Mông Cổ, hoàng đế Khang Hy đápứng lời thỉnh cầu của những bộ lạc Mông Cổ đi ra chủ trì công đạo. Trênthực tế là Khang Hy nhìn thấy rõ tham vọng thống nhất Mông Cổ của CátNhĩ Đan, mà một Mông Cổ thống nhất chính là cường địch trí mạng củavương triều Mãn Thanh. Việc này liên quan đến sinh tử tồn vong của vương triều Đại Thanh, cho nên Khang Hy mới phải nhân lúc Cát Nhĩ Đan cònđương lúc vây cánh chưa lớn mà tiêu diệt, lấy việc này để ‘giết một đemột trăm’.
Mặt khác có lẽ trong đó còn có một tầng ý tứ, Khang Hy đế đại khái là muốn mượn cơ hội này, chứng minh cho mọi người thấy chodù chính ông đã già đi, nhưng vẫn như cũ là người nắm giữ thiên hạ này,vẫn như cũ là người nắm quyền sinh sát trong tay, là quyền lực không thể lay chuyển.
Thánh chỉ chinh phạt Chuẩn Cách Nhĩ vừa ban xuống,toàn bộ vương triều Mãn Thanh liền giống như bộ máy đã lên dây, bắt đầuchuyển động phi tốc, bóng ma của chiến tranh chậm rãi phủ kín trên bầutrời kinh thành.
Rốt cuộc, vào một ngày mưa gió xơ xác tiêu điều, Khang Hy đế đích thân suất lĩnh ba mươi vạn đại quân xuất phát, thẳnghướng Ô Lan Bố Thông, ngoại trừ các bộ đại thần đi theo ra, Khang Hy đếcòn dẫn theo Thập Tam a ca Dận Tường, Thập Tứ a ca Dận Trinh. Mà Thái tử Dận Nhưng thì ở lại Tử Cấm thành tạm thời giám quốc.
Về phần Ung thân vương Dận Chân mặc dù cũng ở lại, nhưng được giao nhiệm vụ trọng yếu: điều động lương thảo.
Nửa tháng sau khi Khang Hy đế dẫn binh xuất phát, từ tin chiến báo truyềnvề, quân Thanh đã giao thủ cùng loạn phỉ Cát Nhĩ Đan, tiêu diệt được một vạn quân địch, đại hoạch toàn thắng.
Tin tức này vừa được truyền về, cả kinh thành đều hoan hô rầm rộ, ngay cả Điềm Nhi cũng thở phàonhẹ nhõm. Nhưng trong chiến tranh, không phải cứ dễ dàng đánh thắng mộttrận liền toàn thắng. Cần phải giao chiến giằng co liên tục, đánh chođến khi có một bên quân lính tan tác, cúi đầu nhận thua mới thôi.
Lại một tháng sau, chiến báo truyền về căn bản là đều là tin vui, hôm naychém địch một ngàn, hôm sau diệt địch năm trăm, có điều đều là nhữngcánh quân lẻ tẻ, không có một trận đại thắng nào như lần đầu tiên.
Dần dà, mọi người trong kinh thành, cũng bắt đầu thói quen cuộc sống “canhgiữ”, ngày qua ngày cũng chầm chậm khôi phục như bình thường.