Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương

Chương 11




Muốn tiếp cận Đào Lệ cũng không phải chuyện gì khó.

Ta nhờ Tăng Tri Hứa tìm giúp vài bản đơn lẻ toán học, lại mua thêm bộ y phục của Thừa Phong thư viện.

Thừa Phong thư viện là thư viện đầu tiên dành cho nữ tử ở Vi Chu. Chuyện này xin dành để kể sau.

Chỉ nói lúc này, ta giả làm một học trò ngoan ngoãn, gõ cửa nhà Đào Lệ.

Đào Lệ đương nhiên không nhận ra ta nhưng nàng nhận ra y phục trên người ta.

“Thừa Phong thư viện sao?”

Ta khom người, nói: “Vâng, học trò cố ý tới đây thăm hỏi Đào Lệ tiên sinh.”

Đào Lệ mặt không đỏ, tim không đập mà đáp: “Nàng ấy không có nhà.”

Ta: “…”

Chẳng phải những người nghiên cứu học thuật đều là người ngay thẳng sao? Sao người này lại nói dối không chớp mắt?

May mà ta có bí kíp.

Ta lấy vài bản đơn lẻ ra, thở dài nói: “Làm sao bây giờ, có vài chỗ ta không hiểu nên chịu cảnh ngàn dặm xa xôi đến kinh thành…”

Từ lúc Đào Lệ thấy ta lấy bản đơn lẻ ra, ánh mắt nàng sáng lên. Nàng mở rộng cánh cửa, dứt khoát nói: “Vào đi.”

Ta giả vờ khó xử: “Lúc nãy người vừa nói Đào Lệ tiên sinh không có nhà…”

Đào Lệ: “Lừa ngươi đấy, chính là ta.”

Người này, quả thật ngay cả việc bịa chuyện cũng chẳng thèm.

Để kéo gần khoảng cách với Đào Lệ, ta cố ý nhờ nàng giảng bài cho ta.

Giảng đến lần thứ năm, Đào Lệ nghi ngờ hỏi: “Đầu óc này của ngươi có thể học toán hả? Quả nhiên Thừa Phong thư viện gặp ai cũng dạy được.”

“…” Ta nhịn.

Ta nói: “Thật ra, học trò rất ngưỡng mộ tiên sinh. Năm đó, tiên sinh dũng cảm theo đuổi phu quân, chạy trốn vì tình, đúng là thể hiện tinh thần bất khuất của nữ nhân. Học trò này cũng muốn giống như tiên sinh, làm một người dũng cảm theo đuổi bản thân.”

Đào Lệ bình tĩnh nhìn ta, ta nghi ngờ nàng ta không hiểu ta đang nói gì.

Ta lại nói: “Hẳn là tiên sinh không biết, chuyện tình yêu của ngài và Thường Tề Tinh, đã sớm được người đời ca tụng… Mọi người đều muốn biết hai vị làm sao mà nên duyên.”

“Ồ.” Cuối cùng Đào Lệ cũng hiểu, nàng vẫn bình tĩnh đáp một tiếng: “Đều là lời đồn thổi, hắn không thích ta.”

Ta nghẹn họng nhìn trân trối.

Đào Lệ nói thật nhanh: “Hắn cưới ta là vì lúc đó ta đi tìm hắn, hắn sợ danh tiếng của ta bị ảnh hưởng.”

Ta trợn mắt há hốc mồm.

Đào Lệ lại nói: “Nhưng ta thích hắn.”

Ta kinh hãi đến thất sắc.

Đào Lệ hỏi: “Trông ta không giống người biết yêu sao?”

Ta câm nín, quả thật không giống.

Đào Lệ cúi đầu, suy nghĩ một lát, khẳng định nói: “Nhưng ta thật sự thích hắn.”

Ta hỏi Đào Lệ vì sao, nàng nói, vì trên đời này khó mà tìm được một người thông minh như Thường Tề Tinh và nàng.

… Được rồi.

Lần đầu tiên Đào Lệ gặp Thường Tề Tình là ở trong thư phòng của Đào Hành Như tại Quốc Tử Giám.

Tuy Quốc Tử Giám là học phủ có danh tiếng và địa vị cao nhất, thế nhưng bên trong cũng phân chia giai cấp rõ ràng, điều quyết định học trò có thể học cái gì không phải dựa vào năng lực và sở trường, mà là dòng dõi xuất thân từ nơi nào.

Quốc Tử Học, Thái Học và Tứ Môn Học, chỉ có con cháu của các gia tộc tam phẩm, ngũ phẩm và thất phẩm mới có thể học.

——

“Quốc Tử học,” “Thái học,” và “Tứ môn học” là các cơ sở giáo dục cao cấp trong hệ thống giáo dục phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là trong thời nhà Đường và nhà Tống. Dưới đây là một giải thích ngắn gọn về từng loại:

Quốc Tử học (国子学): Đây là trường học cao cấp nhất dành cho con cháu hoàng gia và các quan lại cao cấp. Quốc Tử học đào tạo những người sẽ giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình.

Thái học (太学): Là trường học dành cho con cháu của các quý tộc và quan lại cấp trung. Thái học cũng có chất lượng giáo dục cao và là nơi đào tạo những người sẽ trở thành quan chức cấp cao.

Tứ môn học (四门学): Đây là trường học dành cho các con cháu của những gia đình có phẩm hàm thấp hơn và những người bình dân có tài năng. Tứ môn học tập trung vào bốn lĩnh vực chính: kinh điển Nho giáo, luật học, thư học (thư pháp) và toán học.

——

Còn những học trò xuất thân từ bách tính chỉ có thể học Luật học, Thư học và Toán học, chuyên về các kỹ năng.

Tuy nhiên, họ vẫn có cơ hội vào triều làm quan, nhưng xuất phát điểm khác nhau, chức vụ có thể đảm nhiệm cũng cách biệt như trời với đất.

Mặc dù vậy, đối với người vừa thi đỗ vào Quốc Tử Giám, Thường Tề Tinh đầy khí thế và hoài bão, những thực tế tàn nhẫn đó là nỗi đau mà y chưa kịp biết đến.

Lúc ấy, Thường Tề Tinh có đủ vốn liếng để tự tin và kiêu ngạo——Toán học chỉ lấy 30 người từ tám phẩm trở xuống và bách tính, Thường Tề Tinh không chỉ là một trong 30 người đó mà y còn là người đứng đầu.

Thường Tề Tinh là người đầu tiên mà Đào Lệ cảm thấy hứng thú.

Lúc ấy, Đào Lệ 28 tuổi, đã đánh bại rất nhiều học trò khoa toán học, ai ai thấy nàng đều đi đường vòng.

Đào Lệ nhìn khắp Quốc Tử Giám chỉ thấy toàn là những quả bí ngô và khoai tây di động. Sau khi nàng nghe được danh tiếng của Thường Tề Tinh, đương nhiên nàng muốn thảo luận về học thuật với y.

Đào Lệ chỉ có vẻ ngoài cứng nhắc nhưng đầu óc lại nhanh nhạy, nàng mượn danh nghĩa của Đào Hành Như để gọi Thường Tề Tinh đến trước cửa thư phòng.

Bên ngoài tấm bình phong, Thường Tề Tinh cung kính đọc to: “Học trò Thường Tề Tinh xin bái kiến Tế tửu.”

Đào Lệ không nói nhiều với y, nàng hạ giọng, giả giọng nam nhân hỏi: “Nay có ao vuông một trượng, sậy mọc ở giữa ao nhô lên khỏi mặt nước một thước. Kéo sậy vào bờ, vừa khít với bờ. Hỏi: Nước sâu bao nhiêu, sậy dài bao nhiêu?”

Bên ngoài chỉ im lặng một giây, Thường Tề Tinh đã đáp: “Nước sâu một trượng hai thước, sậy dài một trượng ba thước.”

Đào Lệ rất bất ngờ, nàng không ngờ Thường Tề Tinh có thể tính toán nhanh như vậy bèn hỏi thêm: “Làm sao tính được?”

Thường Tề Tinh đáp: “Bình phương nửa cạnh ao, bình phương một thước nước nhô lên, trừ đi, lấy phần dư ra nhân hai lần nước nhô lên chia cho nó, như vậy sẽ được độ sâu của nước. Cộng thêm độ sâu của nước sẽ được độ dài của sậy.”

Đào Lệ không chịu thua, lại hỏi:

“Huyện Giáp có 1.200 người, ở sát nơi cần tới; huyện Ất có 1.550 người, đi một ngày; huyện Bính có 1.280 người, đi hai ngày; huyện Đinh có 990 người, đi ba ngày; huyện Mậu có 1.750 người, đi năm ngày. Tổng cộng năm huyện, số người đi lính hàng tháng là 1.200 người. Muốn dựa vào khoảng cách xa gần, tỷ lệ hộ khẩu, nhiều ít mà phân bổ. Hỏi: Mỗi huyện phải đưa ra nhiêu người?”

Thường Tề Tinh đối đáp lưu loát:

“Huyện Giáp 229 người. Huyện Ất 286 người. Huyện Bính 228 người. Huyện Đinh 171 người. Huyện Mậu có 286 người. Cho mỗi huyện số lính, mỗi huyện theo vị trí và số ngày đi đường mà suy ra, lấy đó làm tỷ lệ. Giáp tỷ lệ 4, Ất tỷ lệ 5, Bính tỷ lệ 4, Đinh tỷ lệ 3, Mậu tỷ lệ 5, cộng lại làm mẫu số. Lấy số người nhân với số chưa cộng, mỗi huyện lấy làm tử số. Tử số chia cho mẫu số được một. Có dư thì làm tròn lên hoặc xuống dựa theo quy tắc.”

Đào Lệ không nản lòng, tiếp tục hỏi:

“Hiện có bảy đấu thóc, ba người chia nhau để xay thành gạo thô, gạo xát và gạo rãnh, sao cho số lượng mỗi loại gạo đều bằng nhau. Hỏi mỗi người lấy bao nhiêu đấu thóc để xay thành mỗi loại gạo?”

Thường Tề Tinh khẽ cười một tiếng, nụ cười có vẻ hơi bao dung.

Y đáp:

“Gạo thô lấy 2 đấu và 10/121 đấu. Gạo xát lấy 2 đấu và 38/121 đấu. Gạo rãnh lấy 2 đấu và 73/121 đấu.”

“Dựa theo phương pháp suy phân*, ta có tỷ lệ gạo thô 30, gạo xát 27, gạo rãnh 24, đảo ngược thứ tự, đổi thành mẫu số. Ta có tỷ lệ gạo thô 1/24, gạo xát 1/27, gạo rãnh 1/30. Sau đó cộng tất cả tỷ lệ sẽ có 121/1080, đặt kết quả này làm mẫu số.”

* Suy phân (衰分): Gồm những bài toán chia tỉ lệ, quy tắc tam suất đơn và kép. Đây là 1 chương thuộc “Cửu Chương Toán Thuật” thời Đông Hán.

“Phương pháp tính như sau: lấy 7 nhân với từng số chưa cộng, mỗi kết quả các loại thóc lấy làm tử số. Tử số đó sẽ chia cho mẫu số được một đấu gạo từng loại.”

“Nếu muốn biết sau khi gia công được bao nhiêu đấu gạo. Lấy gạo rãnh với tỷ lệ 30 làm ví dụ, ta lấy tỷ lệ nhân với số kết quả đấu gạo đã tính lúc nãy được 7560/121. Dùng kết quả làm tử, thóc có tỷ lệ 50 làm mẫu, ta được 1 đấu và 151/605 đấu.”

Đào Lệ gật đầu, thành thật khen ngợi: “Có chút bản lĩnh.”

Bên ngoài tấm bình phong, Thường Tề Tinh không nhịn được, y bật cười thành tiếng.

Đào Lệ lúc này mới phản ứng lại, lúc nãy nàng hỏi quá vội vàng, khen ngợi cũng quá thật lòng lại quên mất việc bóp giọng.

Thường Tề Tinh cười nói: “Cô nương, đây là thư phòng của Tế tửu đại nhân, nếu bị phát hiện thì nàng sẽ bị phạt. Tận dụng lúc chưa có ai, nàng mau đi đi.”

Đào Lệ nghiêng đầu suy nghĩ, nàng bị phát hiện tại sao phải bị phạt?

Thường Tề Tinh đợi ở bên ngoài một lúc, thấy nàng không phản ứng lại tốt bụng nói: “Nàng yên tâm, ta sẽ quay lưng lại, tuyệt đối không nhìn.”

Đào Lệ càng thêm không hiểu, nàng bước ra khỏi tấm bình phong với vẻ chân thành, thậm chí còn đi thẳng đến trước mặt Thường Tề Tinh.

Đào Lệ hỏi: “Vì sao ngươi không nhìn ta?”

Thường Tề Tinh ngây người.

Đào Lệ đợi mãi không thấy Thường Tề Tinh trả lời, câu trả lời này chắc chắn không khó hơn toán học đâu.

Trước khi nhập học, y đã nghe ngóng tin tức và biết rằng Đào Hành Như có một nữ nhi si mê toán học.

Thông qua những cuộc đối đáp vừa rồi, trên cơ bản y đã xác định được thân phận của Đào Lệ.

Ban đầu y nghĩ rằng vị tiểu thư này lại phát bệnh, nam nữ thụ thụ bất thân, y định giả vờ không biết để nàng ấy rời đi.

Không ngờ nàng ấy lại chẳng quan tâm gì mà lại tiến thẳng đến trước mặt y, không hề giữ chút dáng vẻ e thẹn của một cô nương.

Đào Lệ tò mò lại tiến lại gần, quan sát Thường Tề Tinh từ gần, Thường Tề Tinh lại hoảng hốt lùi lại một bước, tỏ vẻ hoảng sợ.

Đào Lệ kỳ lạ nhìn nhìn, sờ sờ chính mình:

Váy màu hồng đào, tóc cũng búi gọn gàng, mặt cũng không dính mực, chắc chắn không đáng sợ, không biết Thường Tề Tinh sợ cái gì.

Nàng lại nhìn thấy diện mạo của Thường Tề Tinh, mi thanh mục tú, thần sắc phong nhã, quả thật so với những quả bí ngô và cà tím béo mập trong vườn thì sạch sẽ hơn nhiều.

“Bắp cải.” Đào Lệ lẩm bẩm.

Thường Tề Tinh ngẩn ngơ, “Cái gì?”

Đào Lệ tốt bụng giải thích: “Ngươi giống như một cây bắp cải.”

Thường Tề Tinh: “…”

Được rồi, nghe có vẻ không phải là lời mắng chửi.

Đào Hành Như xuất hiện, quát một tiếng trầm thấp “Con lại quậy gì nữa!”, Thường Tề Tinh lập tức phản ứng lại, y xoay người khom lưng ôm quyền, liên tục tự kiểm điểm.

“Học trò thất lễ, xin bái kiến Tế tửu đại nhân.”

Đào Hành Như mặc quan phục có tay áo rộng, ngón cái đeo một chiếc nhẫn ngọc cực kỳ quý giá, trông rất nghiêm nghị lạnh lùng.

Ông nhìn Thường Tề Tinh từ trên xuống dưới, ánh mắt đương nhiên không thể nói là nhân từ, toàn là sự khắt khe, cay nghiệt.

Loại ánh mắt này, Đào Lệ đã gặp nhiều rồi. Mỗi khi Quốc Tử Giám có học trò mới, Đào Hành Như đều đánh giá họ như vậy, giống như một con…

“Tỳ hưu.”

Đào Lệ suy nghĩ như tính toán, nghĩ gì thì nói ra.

Trên mặt nghiêm khắc của Đào Hành Như xuất hiện một vết nứt, ông ta gần như bất lực nhìn nữ nhi của mình, cũng không nói được lời trách móc nặng nề nào.

Chỉ có thể sờ râu, ngoài cứng trong mềm nói nhỏ: “Lễ nghi của con đâu?”

Đào Lệ cung kính hành lễ, giống như con rối, động tác chuẩn xác nhưng không có chút tình cảm nào. Nàng nói: “Phụ thân.”

Đào Hành Như thở dài, rõ ràng là ông không có cách nào với nữ nhi này.

Trong suốt quá trình đó, Đào Hành Như để mặc Thường Tề Tinh cúi người, không hề có ý định nói chuyện với y.

Thường Tề Tinh rất nhanh đã lưng mỏi gối đau, nhưng trước khi được cho phép, hắn vẫn phải nhẫn nhịn, tránh mất lễ nghi.

Đào Lệ thấy hắn run run, dáng vẻ yếu đuối, tốt bụng nhắc nhở: “Ông ấy đang đợi ngươi dâng lễ.”

Thường Tề Tinh: “…”

Đào Hành Như: “…”

Thường Tề Tinh rất nhanh đã phản ứng lại, y lấy từ túi gấm ở eo một chiếc ngọc bội.

Đào Lệ nhìn hắn cẩn thận làm động tác đó, nàng biết ngọc bội này vô cùng quý giá.

Trong một khoảnh khắc thoáng qua, Đào Lệ bắt gặp một tia bất mãn và tức giận trong ánh mắt của y.

Có lẽ y nghĩ rằng Quốc Tử Giám là nơi thoát tục, sẽ không có mùi rượu thịt, nhưng không ngờ, vừa đến đã bị Tế tửu đại nhân đòi hỏi.

Thường Tề Tinh khẽ nói: “Đây là món quà gia mẫu tặng lúc chia tay, đây là ngọc bội truyền đời của nhà học trò, học trò thành tâm hiến tặng, mong Tế tửu đại nhân chớ ghét bỏ.”

Đào Hành Như lạnh lùng liếc nhìn món đồ trong tay Thường Tề Tinh, hừ nhẹ một tiếng: “Ngươi cho rằng Quốc Tử Giám là nơi nào? Cất đi.”

Thường Tề Tinh âm thầm nắm chặt nắm đấm.

Đào Hành Như vẫy tay, Thường Tề Tinh được cho phép mới thẳng lưng lên nhưng vẫn vô cùng trân trọng cất chiếc ngọc bội đi.

Đào Hành Như dùng ánh mắt kiêu ngạo nhìn kỹ khuôn mặt hắn, nàng hỏi: “Ngươi chính là người đứng đầu khoa Toán học?”

“Đúng vậy.”

“Tại sao học Toán học?”

Thường Tề Tinh không suy nghĩ mà đáp: “Để làm quan.”

Đào Hành Như cười nhạt, nói: “Không biết trời cao đất rộng.”

Thường Tề Tinh không nói gì, cũng không phản bác.

Đào Hành Như quay đầu hỏi Đào Lệ: “Con lại bày trò gì nữa?”

Đào Lệ trả lời: “Nghe nói hắn giỏi nên con đến thử hắn.”

Đào Hành Như hỏi: “Thử như thế nào?”

Đào Lệ: “Toán học không tồi, tâm địa không trong sáng, khó thành danh.”

Thường Tề Tinh ngạc nhiên nhìn nàng, có lẽ không ngờ nàng thẳng thắn như vậy, cũng không ngờ nàng cay nghiệt như vậy.

Nhưng Đào Lệ vốn không quan tâm đến những điều đó, nàng rất thành thật tiếp tục nói: “Tuy nhiên, hắn chỉ biết cái trước mắt, ngược lại có vẻ hợp với người tham lam hư vinh như phụ thân.”

Đào Hành Như hơi nheo mắt, sắc mặt u ám, không thể nhìn ra vui buồn.

Đào Lệ dường như hoàn toàn không nhận thức được mình đã xúc phạm phụ thân, nàng khom người hành lễ với Đào Hành Như, rồi cứ thế đi.

Đào Hành Như vung vung tay áo, cũng quay người vào trong, hoàn toàn để mặc Thường Tề Tinh cứ như vậy mà ăn bế môn canh.

Thường Tề Tinh bị bỏ còn một mình, trên mặt đầy vẻ khó xử nhưng cuối cùng cũng không ai quan tâm.

Nhìn những học sinh tài năng, xuất thân hiển hách của Quốc Tử Giám, y vốn là người vô danh tiểu tốt, thất bại và đáng thương nhất.

Tâm trạng Thường Tề Tinh không khỏi buồn bã, lúc y trở về mới phát hiện trong phòng của y còn có bốn người vô danh tiểu tốt không khác gì mình: Trang Côn, Hồ Càn, Trần Tế Đường, Đổng Xuân Lai.

Họ đều xuất thân hàn vi, nhiều đời là dân thường, đã vậy họ còn bị Đào Hành Như gây khó dễ khi mới vào cửa.

Trang Côn, Đổng Xuân Lai có chút gia sản, lễ vật dâng lên khá hậu hĩnh, Đào Hành Như không cự tuyệt mà nhận luôn.

Thường Tề Tinh lúc này mới phản ứng lại, Đào Hành Như không nhận ngọc bội của hắn là vì chê hắn nghèo.

Năm người tụ lại, tức giận mắng Đào Hành Như và thế đạo bất công, rất nhanh cả năm đã trở thành hảo hữu thề ước với nhau: Không thể sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng nguyện chet cùng năm cùng tháng cùng ngày.

Chỉ là không ngờ, bây giờ còn lại mỗi Thường Tề Tinh.

Ta lại hỏi Đào Lệ, vì sao nàng lại cảm thấy Thường Tề Tinh không thích nàng?

Đào Lệ nói: “Phụ thân ta cướp đi công danh của hắn. Nam nhân coi trọng cái này nhất, phụ thân ta làm vậy giống như giết phụ mẫu hắn, là kẻ thù của hắn.”

Nàng dừng lại rồi nói: “Phụ thân ta là tham quan.”

Năm đó thi cử, Thường Tề Tinh rõ ràng đỗ đạt, đứng đầu danh sách, chiếu theo thành tích hoàn toàn có khả năng đi Thái Sử Cục.

Nhưng Đào Hành Như đã cản y, bởi vì học trò hạng nhì đó gia cảnh giàu có, hắn đã đưa cho Đào Hành Như không ít bạc để lo lót thay thế vị trí của Thường Tề Tinh.

Đào Hành Như tham ô, gần như có thể nói là đã tước đoạt hết hy vọng của Thường Tề Tinh trong cuộc đời.

Thái Sử Cục là nơi gần quyền lực Hoàng đế nhất, đó cũng là cơ hội tốt nhất để xoay chuyển số phận.

Còn Lương Đạo Sứ* hoàn toàn là chức quan khổ sai, huống chi Thường Tề Tinh còn bị phái làm Lương Đạo Sứ của Bính Châu, nơi ấy hạn hán triền miên, khắp nơi đều là người chết đói.

* Lương Đạo Sứ (粮道使) là chức quan chịu trách nhiệm quản lý và điều phối lương thực trong một khu vực nhất định. Chức quan này có nhiệm vụ đảm bảo việc thu hoạch, lưu trữ, vận chuyển và phân phối lương thực để đáp ứng nhu cầu của quân đội, chính quyền và dân chúng.

Cho nên, dù Thường Tề Tinh có tình cảm với Đào Lệ nhưng ngăn cách giữa hai người là lý tưởng và tương lai bị phá hủy của y, khiến cho y không thể đối mặt với Đào Lệ một cách bình thường.

“Nhưng oan uổng quá!”

Ta khuyên Đào Lệ: “Không thể vì chuyện xưa mà không sống tiếp được? Huống chi phụ thân ngài đã mất lâu rồi, chi bằng ngài chủ động một chút? Thậm chí đá cũng có thể ủ ấm được mà! Học trò thấy Thường Tề Tinh rất chiều chuộng ngài.”

Đào Lệ im lặng, dường như đang suy nghĩ những lời ta nói.

Nàng đột nhiên nói: “Năm đó tại tang lễ của phụ thân ta, nhiều học sinh hàn vi tụ tập ở cửa Quốc Tử Giám, đánh chiêng, bắn pháo, uống rượu say sưa, ăn uống no say, họ vui vẻ như ngày Tết.”

Nàng dừng lại, lại nói: “Ngươi nói trong số những người đó, có Thường Tề Tinh không?”

Ta giật mình, cảm thấy có thứ gì đó trong màn sương mù trở nên rõ ràng hơn.