[Bách Hợp/GL] Hiệp Khách Hành

Chương 9





Hôm nay sau giờ ngọ, Hình quản sự của tiền viện vội vàng chạy đến.
 Tần Cô Đồng vừa luyện kiếm xong, hoành đao trong tay còn chưa trở lại vỏ.
 "Mau đi thôi, Đại thiếu gia đang tìm ngươi." Thấy nàng không nhúc nhích, Hình quản sự vội vàng vươn tay muốn kéo nàng.

Tần Cô Đồng vẫn đứng thẳng nhưng chân thì lùi lại nửa bước, vừa tránh tay của quản sự vừa thu kiếm vào vỏ.
 Hình quản sự sửng sốt, hắn là võ quản sự trong phủ, đã có 20 năm công phu.

Nếu hôm nay bị tiểu nha đầu 16, 17 tuổi này ra oai phủ đầu thì mặt mũi của hắn để vào đâu.

Lông mày của hắn trùng xuống, thay vì thu lại bàn tay đang vươn ra, gân xanh trên tay hiện lên và lao tới nắm lấy cánh tay của Tần Cô Đồng.
 Tần Cô Đồng không cố ý, đó chỉ là thói quen của người luyện võ.

Nhưng mà Hình quản sự bất ngờ tấn công, tự nhiên nàng muốn né tránh.

Nàng né người sang một bên, Hình quản sự lập tức vung tay ngang qua.
 Tần Cô Đồng dồn khí vào đan điền1, dưới chân bén rễ.

Hai đầu gối gập lại và ngả người ra sau.

Một chiêu của Hình quản sự thất bại, còn Tần Cô Đồng vẫn đứng thẳng như cây bạch dương2.
 Hình quản sự thấy thế, càng để ý đến thắng thua nhiều hơn.

Hai tay hắn hoá chưởng, tay trái đánh vào vai của Tần Cô Đồng, tay phải khóa cánh tay của nàng.

Chân phải đá ra, sau đó móc đầu gối của nàng.

Trên, giữa, dưới ba đường, Tần Cô Đồng muốn tránh cũng không thể.
 Nàng đề khí khinh thân3, một cước đạp lên chân trái của Hình quản sự.

Mượn lực này, bay lên và xoay người một cái.

Giữa không trung, vỏ hoành đao đánh vào cánh tay của Hình quản sự.

Đợi nàng tiếp đất, đã ở cách đó bảy thước.
 "Hình quản sự, đừng để Đại thiếu gia đợi lâu." Tần Cô Đồng chắp tay cười nói.
 Hình quản sự nhìn mu bàn tay của mình, đột nhiên bật cười, thân thể đang cười run lên như thể vừa nghe được một chuyện cười lớn.

Sau đó thở dài thườn thượt, ôm quyền thi lễ: "Ếch ngồi đáy giếng không biết bên cạnh tàng long ngoạ hổ, khiến Tần cô nương chê cười.

Xin mời!"
Tần Cô Đồng thấy vẻ mặt chân thành và kính nể của hắn ta, nàng cũng không làm vẻ ta đây mà chắp tay đáp lễ và nâng bước đi về phía tiền viện.
 "Đại thiếu gia tìm ta có việc gì? Ta vẫn cho rằng thiếu gia ở điền trang dưới chân núi." Tần Cô Đồng vừa đi vừa hỏi.

Nàng đã ở Phương phủ được mười năm, và Phương Hưng chưa bao giờ tìm nàng.

Theo lẽ thường thì bây giờ hắn nên bận rộn ở Đại hội Long Đan mới đúng.
 Nghe xong câu hỏi của nàng, Hình quản sự nghĩ đến đại nhân vật ở dưới chân núi kia, không khỏi lo lắng mà nói: "Hai ngày trước có một vị khách quý, thiếu gia đã sắp xếp ngài ấy vào ở điền trang dưới chân núi."
 Liên quan gì đến ta? Tần Cô Đồng thầm nghĩ.
 Nàng nghĩ ngợi một lúc rồi nói: "Hình quản sự, ta luôn ở trong lâu sách nên nhiều sự tình trong phủ ta không hiểu lắm, còn muốn ngươi chỉ giáo thêm."
 Hình quản sự nghe vậy, chỉ có thể cười khổ, "Tần cô nương, không phải ta từ chối mà thật sự không biết có chuyện gì xảy ra." Hắn đột nhiên nghĩ đến gì đó, hạ giọng nói: "Đêm qua, Đại thiếu gia cùng Thiếu phu nhân ầm ĩ một trận, sau đó ngủ ở thư phòng.

Hôm nay nhận được một phong thư, liền vội vàng cho ta tới tìm ngươi."
 Cãi nhau? Lá thư?

 Nếu hỏi về nội dung lá thư, Hình quản sự mà biết cũng sẽ không nói.

Tần Cô Đồng cau mày, sau đó giãn ra, "Thì ra là vậy.

Nói mới nhớ, chiều ngày hôm qua ta đã nhìn thấy Thiếu phu nhân.

Ta ở trong phủ mấy năm nay nhưng rất hiếm gặp phu nhân, nàng thật sự là mỹ nhân.

Trách không được thiếu gia chưa từng đi hái hoa ngắt cỏ, khiến cho người ta hâm mộ."
 "Haha, Tần cô nương tướng mạo và võ nghệ như vậy, ở trong phủ của chúng ta cũng không tồi, bằng không ong bướm trên giang hồ sẽ làm phiền chết ngươi."
 Tần Cô Đồng hoàn toàn không quan tâm hắn ta nói gì, chỉ thuận theo chủ đề mà hỏi: "Năm đó, Đại thiếu gia cũng là ong bướm của Thiếu phu nhân?"
 "Hả?" Hình quản sự khó hiểu nhìn nàng, lắc đầu nói: "Tuy rằng Thiếu phu nhân xuất thân từ Đàm gia ở Ưng Đàm, nhưng không biết võ công, cũng chưa từng qua lại trên giang hồ.

Trước khi Đại thiếu gia và Thiếu phu nhân thành hôn thì cũng chưa từng gặp mặt nhau."
 Lần này đến lượt Tần Cô Đồng kinh ngạc, nàng nhanh chóng hỏi, "Đàm gia ở Ưng Đàm? Thiếu phu nhân họ Đàm? Không phải, không phải là dưỡng nữ gì đó hả?"
 Hình quản sự triệt để mơ hồ, dở khóc dở cười mà nói: "Tần cô nương, lời đồn ở đâu ra vậy? Thiếu phu nhân và Đại thiếu gia kết thân, chính ta cùng đại quản gia đi Ưng Đàm để đề thân, một tay lo liệu hết.

Cảnh tượng lúc đó có thể nói là bánh hỉ rắc ven sông đã ba ngàn cân, cũng không có gì sai."
 Tần Cô Đồng chỉ cảm thấy đầu không đủ để dùng.
 Không đợi nàng suy nghĩ cẩn thận, Hình quản sự đã đưa nàng vòng qua ao sen, băng qua cây cầu cong và trực tiếp đến thư phòng.
 Tần Cô Đồng chắp tay nói: "Gặp qua Đại thiếu gia."
 Trong lòng nàng đầy nghi ngờ, nhịn không được đưa mắt lên nhìn Phương Hưng.

Mấy ngày không gặp, dưới cằm của Phương Hưng đã mọc ra vài cọng râu lỏm chỏm, trông đã già đi mấy tuổi.

Nam tử ngoài ba mươi, dung nhan không suy, năm tháng như lắng đọng lại.

Huống hồ phú quý dưỡng nhân, quyền thế mài dũa tâm, nét u sầu mờ ảo giữa hai lông mày càng thêm hấp dẫn.
 Phương Hưng cảm nhận được ánh mắt của nàng, tâm không vui nhưng sắc mặt cũng không nhìn ra manh mối.

Hắn là Đại thiếu gia cao quý của Phương gia, có bao nhiêu nữ nhân muốn trèo lên giường hắn.

Hắn nhấc tay cho Hình quản sự lui ra, liếc nhìn Tần Cô Đồng và lấy ra một lá thư.
 "Gửi nó đến u cốc." Nhiều năm như vậy, lần đầu tiên nàng nghe thấy hắn nói đến nơi đó.

Cứ như có xương cá mắc vào cổ họng, khiến lời nói của hắn trở nên cụt lủn.
 Trong lòng Tần Cô Đồng ngạc nhiên nhưng vẫn bước lên trước, hai tay nhận lấy phong thư, dừng lại một chút rồi quay người rời đi, sau lưng nghe thấy Phương Hưng nói: "Phải nhanh."
 "Vâng ạ."
 Tần Cô Đồng giấu lá thư vào trong áo và chạy như bay về phòng.

Nàng đóng cửa lại, lồng ngực vẫn còn đập loạn xạ.

Lá thư nóng rực trong ngực, buộc nàng phải lấy nó ra.

Nàng cầm một góc của phong thư, nhấc nó lên và soi nó dưới ánh mặt trời.

Phong thư của Phương phủ rất tốt, không chỉ dày mà còn được dát vàng.
 Đứng sau cánh cửa và đợi một lúc, không có ai đi theo, Tần Cô Đồng thở phào nhẹ nhõm, đẩy cửa ra và bước nhanh vào lâu sách.

Chìa khóa đồng được cắm vào ổ khóa, từng cửa từng cửa, rồi đi đến tận cùng bên trong của lâu sách.
 Tiếng giá sách dời đi vừa quen vừa lạ.

Tần Cô Đồng đi xuống mật thất, một, hai, ba, bốn...!ở một trăm mười ba bước, cánh cửa sắt đã ở trước mặt.


Đầu ngón tay chạm vào chiếc chìa khóa đặc biệt, Tần Cô Đồng chậm rãi lấy ra và đút vào ổ khóa.

Trong hành lang tối tăm yên tĩnh, vang lên một âm thanh chói tai rất nhỏ.
 Cho dù Tần Cô Đồng có cẩn thận đến đâu, âm thanh chói tai khi đẩy cánh cửa sắt ra vẫn vang vọng trong mật thất.

Như tiếng móng mèo cào góc tường, tiếng thìa cạ vào thành nồi sắt, làm cho lợi của người ta nhũn ra, da đầu run lên, hận không thể đem cánh cửa sắt này đạp cho văng đi.
 Tần Cô Đồng vội vàng khóa cánh cửa sắt và chạy vào u cốc.

Khi nàng chạy đến sân nhỏ của Từ di, phát hiện dường như không có ai ở đó.
 "Từ di?" Tần Cô Đồng thử hô một tiếng.
 Nàng đứng đợi một lúc và không có ai để ý.
 Tần Cô Đồng đẩy cửa hàng rào, bước vào nhà chính.

Dưới chân nàng có gì đó kỳ lạ, nàng cúi đầu nhấc chân lên, liền thấy một miếng bạch mộc nhĩ4 đang vùi trong đất một nửa.

Trong lòng Tần Cô Đồng kinh hãi, vội vàng đưa tay đẩy cửa.

Cửa gỗ không khóa và đẩy một cái liền mở.
 "Kẹt kẹt."
 Cánh cửa gỗ mở ra một nửa, Tần Cô Đồng đứng ở ngoài cửa ngẩn người.
 Cẩm tú phô thiết, thuý hồng la liệt5.

Khác với vẻ đơn sơ của ngôi nhà gỗ, đồ đạc trong nhà có thể nói là lộng lẫy và nguy nga.

Vốn chỉ là một ngôi nhà để che mưa gió, nhưng khi mở cửa ra, nó đã biến thành bối khuyết châu cung6.

Trên nóc nhà được khảm bằng dạ minh châu của Nam Hải.

Ban ngày, tia nắng chiếu rọi, điềm lành mờ ảo.

Dưới chân bàn gỗ có một chiếc hộp chạm khắc bằng sơn mài, bên cạnh có dòng chữ "nhuận nước7" được viết một cách mơ hồ.

Trên bàn gỗ thì có gương thuỷ tinh nạm vàng và một chiếc hộp đang mở ra, trâm cài hình mây và phượng hoàng, vòng tay vàng hình hoa mẫu đơn và phượng hoàng, trâm cài tóc vàng hình phượng hoàng có khảm bảo vật và ngọc trai, trâm bạch ngọc khảm ngọc lục bảo và hoa bích tỷ8...!Trâm cài tóc và bông tai đung đưa, vàng và đá ngọc phủ kín cả bàn.

5.

"Cẩm tú phô thiết, thuý hồng la liệt" trích từ "Đôi môi đỏ mọng của tiên lữ", tác giả không rõ.

Tạm dịch: Gấm vóc trải, vải hồng, ngọc lục bảo bày ra.

6.

Bối khuyết châu cung: (thành ngữ) Ý là chỉ dùng trân châu bảo bối làm cung điện, hình dung phòng ốc hoa lệ.

Xuất từ "Cửu Ca – Hà Bá" của nhà thơ Khuất Nguyên thời Chiến quốc thuộc nước Sở.

7.

Nhuận nước: Nước dưỡng ẩm.


 Tần Cô Đồng hết sức kinh ngạc, sợ giẫm làm bẩn thảm.

Nàng cúi người nhìn vào, trên tấm bình phong màu bạc có hoạ tranh, mơ hồ nhìn thấy túi thơm được thêu, nhưng không có người ở đó.

Huân lô hình vịt trơ trọi trên mặt đất, với hương khói nhiêng xoáy đi xoáy lại.
 Nhìn các loại trang sức bằng vàng, bạc, ngọc tuỳ ý ném trên thảm nhung sợi tơ, Tần Cô Đồng chậm rãi đóng cửa lại.

Nàng lặng lẽ đứng ngoài cửa, lướt ngón tay qua hoành đao sau eo, quay người bước về hướng Đông Nam.
 Những ngọn núi phía xa giống như trời nghiêng che khuất mặt trời.

Gió lạnh xào xạc khắp cánh rừng.

May mắn thay, có một mùi thơm nhẹ nhàng, lông mày của Tần Cô Đồng hơi giãn ra.

Mấy ngày gần đây có rất nhiều chuyện khiến tinh thần nàng không yên.

Giờ phút này, đi trên con đường nhỏ, núi xanh thoang thoảng mùi đàn hương.

Sự bồn chồn trong đáy lòng lắng xuống, trong lòng đột nhiên sinh ra cảm giác vượt khỏi thế gian.
 Nàng tĩnh tâm và hít một hơi thật sâu, mọi muộn phiền đều bị cuốn trôi.
 Bước chân nhẹ nhàng đi trên đám cỏ, xuyên qua khu rừng tre.

Không bao lâu thì nhìn thấy dãy nhà gạch ngói trên đất cao, Tần Cô Đồng đưa mắt nhìn về chỗ trũng và thấy một bóng người đang bước vào ngôi nhà lớn kia.
 Áo hoa mai váy vàng khắc xạ hương, thắt lưng lụa đỏ thêu hình bướm.

Tuy rằng chỉ là nhìn thoáng qua, nhưng Tần Cô Đồng có thể biết người bước vào là Từ di, có điều y sam quá mức sang trọng.

Tần Cô Đồng ngẩn người một lúc mới phản ứng được.

Từ di ăn mặc lộng lẫy như thế, đến đây để làm gì?
 Tần Cô Đồng không hiểu thấu, suy đi nghĩ lại vẫn không thông.
 Nàng sợ nhà này lâu năm không tu sửa, ngói trên nóc không chịu được khi bị giẫm lên.

Nhưng nhìn vào khe cửa sẽ dễ dàng bị người khác phát hiện.

Trong lòng nàng đã có tính toán, tĩnh tâm đề khí, mũi chân liên tục chĩa xuống đất.

Chỉ thấy tàn ảnh vụt qua, Tần Cô Đồng đã ở bên cạnh ngôi nhà.

Không chút do dự, một tay nàng nắm chặt chùm chìa khóa quanh eo và tay kia cầm hoành đao.

Nàng hơi ngồi xổm, sau đó bật người vọt lên và vững vàng đáp xuống nóc nhà.
 Bốn bề im lặng, chỉ có chim muông và dã thú kêu vang, Tần Cô Đồng thu hồi ánh mắt, chậm rãi cúi xuống.

Lòng bàn tay lướt qua dãy ngói đen trước mặt, dừng lại trên một viên gạch rời, rồi từ từ nhấc lên.
 Có tiếng chuyển động trong phòng, sau đó là giọng của Từ di.
 Tần Cô Đồng nghiêng người nhìn xuống.

Chú thích:
1.

Đan điền: Đan điền, từ Hán Việt có nghĩa là "ruộng trồng đan dược", là nơi khí lực dễ tập trung hay có thể tập trung khí lực nhiều nhất, mạnh nhất.

Vì vậy tùy theo môn phái và tùy theo mục đích sử dụng mà có các dị biệt về huyệt đạo.

Nghiên cứu về Đan Điền được dùng ban đầu trong Đạo giáo.

Tuy nhiên vì có nhiều môn phái, sách vở khác nhau nên thuật ngữ "đan điền" có thể được dùng không nhất quán bởi các môn phái khác nhau.

Trong cơ thể người có ba bộ vị được gọi là đan điền:

- Thượng đan điền: Trùng với huyệt Ấn đường (giữa 2 chân mày) còn gọi là "Đan Điền thần".

- Trung đan điền: Trùng với huyệt Đản trung (chính giữa đường nối 2 đầu ti, cắt ngang đường dọc theo xương ức) còn gọi là "Đan Điền khí".

- Hạ đan điền: Còn gọi là "Đan Điền tinh", vị trí bắt đầu ngang với huyệt Khí hải (nằm trong khoảng trên đường chính trung, dưới rốn 1,5 thốn - khoảng 3 cm) và huyệt Mệnh môn (tại cột sống, ngang với thắt lưng).

Khi Đan Điền được chủ động kích hoạt, bộ vị của nó hoàn toàn nằm ở giữa và phía trên bụng dưới.

Có môn phái thì nói nó nằm trên huyệt Thần khuyết (rốn).

2.

Cây bạch dương: (Betula platyphylla): Thuộc họ hoa mộc (Betulaceae).

Trong thời cổ đại, bạch dương được biết đến với cái tên "Cây vũ trụ".

Cái gọi là cây bạch dương là biểu tượng của sự thanh lọc tinh thần, thể chất và tinh thần ; nó là "người canh cửa" dẫn thầy cúng lên trời, đến nhà của các vị thần.

Theo truyền thống, bạch dương có bốn sức mạnh: nó mang lại ánh sáng cho thế giới, tiêu diệt tiếng la hét, chữa lành bệnh tật, làm trong sáng tâm hồn.

Kể từ đó, bạch dương vẫn là một loài cây thiêng vì người ta tin rằng nó có thể chữa bệnh ở thân, rễ và lá của nó.

Sau đó, người ta lấy gỗ làm ván trượt cơ bản, một loại bột giấy mà từ đó họ lấy làm giấy, một loại nhiên liệu để sưởi ấm; Ở Bắc Mỹ, do sự hiện diện của các chất có đường, nó đã được sử dụng để sản xuất bia lỏng.
3.

Khinh thân thuật còn gọi là Cân thân thuật (thân nhẹ), Đề khí thuật hay Khinh thân công, Khinh công: Luyện thân thể nhẹ nhàng.

Luyện ban đầu bằng cách chạy trên thành chum đựng nước, sau bỏ nước dần dần rồi đến rổ mây đựng cát và lần lần bỏ cát vơi dần đến hết.

Cuối cùng chạy trên nền cát cho đến khi linh hoạt đến mức cát không bị tung lên, chân không để lại dấu.

(Trích Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công)
4.

Mộc nhĩ trắng (danh pháp khoa học: Tremella fuciformis): Còn gọi là nấm tuyết nhĩ, ngân nhĩ hay nấm tuyết, là một loài nấm được sử dụng trong ẩm thực của một số nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam.

Tại Trung Quốc, nó được gọi là ngân nhĩ hay bạch mộc nhĩ, ngọc mộc nhĩ, và trong tiếng Nhật là shiro kikurage.

Loại mộc nhĩ này mọc trên thân cây và có màu trắng nhạt trong mờ.

Sản phẩm được bán trong dạng sấy khô và cần ngâm nước trước khi dùng.

Nó được sử dụng trong cả các món ăn mặn và món ăn ngọt.

Nó không có mùi vị gì nhưng được sử dụng và đánh giá cao nhờ kết cấu giống như thạch cũng như một số tính chất bổ dưỡng.
8.

Bích tỷ (đá Tourmaline): Là loại đá quý được đánh giá cao và có giá trị trong nhiều thế kỉ.

Đây là 1 gia đình đá quý với rất nhiều màu sắc khác nhau, thường bị nhầm lẫn với các loại đá quý khác có giá trị cao hơn như Ngọc lục bảo, Ruby hay Sapphire.

Đá Tourmaline là 1 borosilicate nhôm trộn với nhiều kim loại khác nhau như sắt hoặc ma-giê.

Màu của đá Tourmaline được xác định bằng loại và lượng kim loại mà nó chứa.

Đá Tourmaline có nhiều màu khác nhau như: đen, xanh dương, nâu, xanh lá cây, đỏ, hồng, tím và vàng.

Nguồn gốc cái tên của đá quý này đã phản ánh sự đa sắc của nó.

Tên gốc tiếng Sinhala của nó là Turmali nghĩa là "đá quý có màu hỗn hợp" hay Turamali nghĩa là "món quà nhỏ đến từ Trái Đất"..