Đàm Duy và Tạ Di Hồng chia nhau đi tìm Tiểu Băng. Tạ Di Hồng đưa di động cho anh để tiện liên lạc, còn cô có thể dùng di động của ba hoặc anh trai.
Giờ phút này anh cũng bất chấp chính sách tiết kiệm của Tiểu Băng về “tuyến đường có xe bus nhất quyết không được bắt taxi”. Anh ngồi taxi đến trước ngọn núi nhỏ mà anh và cô đã ôm nhau định ước lần đầu tiên rồi xuống đi bộ. Trước đó anh vẫn có thể liên lạc được với người trong thành phố, nhưng sau khi đi vào trong núi, tín hiệu không tốt nên không thể dùng điện thoại được, anh càng có linh cảm Tiểu Băng đang ở ngọn núi này, có lẽ cô ấy không tắt điện thoai, chỉ là không có tín hiệu mà thôi.
Anh bătd đầu đi dọc theo con đường hai người đã từng đi để tìm cô, đó là nơi đã lưu giữ những dấu chân của họ, mỗi ngóc ngách đều là “danh lam thắng cảnh” cho tình yêu của họ.
Anh đi đến một vách núi dựng đứng bên cạnh, bắt gặp một điểm phục vụ chụp ảnh cưỡi ngựa ở đó. Anh không nhớ người chủ liệu có phải là người từ nhiều năm về trước, nhưng anh vẫn nhớ như in buổi chụp ảnh ngày hôm ấy. Tiểu băng cưỡi lên lưng ngựa, giống như một nữ hiệp giang hồ, khóa lên mình chiếc áo choàng màu đen, bên eo giắt một thanh kiếm dài, một tay đặt trên vỏ kiếm, tay còn lại nắm lấy chuôi kiếm, khẽ rút ra, tuy kiếm là giả nhưng vẫn có hiệu ứng ánh sáng lóe lên sắc ngọt.
Khi ấy anh đang chụp ảnh, không biết có phải vì dùng flash để chụp hay không, con ngực đột nhiên chuyển động. Tiểu Băng hét lên sợ hãi, anh cũng hoảng sợ luốn cuống, vì bên cạnh là vách núi, nếu ngựa chạy loạn lên, hất Tiểu băng xuống vách núi đó, chắc chắn sẽ thịt nát xương tan. Anh còn nhớ mình đã xông vọt qua đó, chắn ở bên vách núi, kéo lấy dây cương. Chủ ngực cười ngất, những người bên cạnh đang đợi cưỡi ngựa chụp ảnh cũng cười ngất, bởi ngựa đã được buộc chặt, hơn nữa nó lại là con ngựa vô cùng thuần phục, sẽ không chạy loạn.
Nhưng mỗi lần nghĩ lại anh vẫn thấy sợ, vì Tiểu Băng cũng giống anh, hoàn toàn không biết ngựa rất nghe lời, nếu Tiểu Băng cuống tay cuống chân, giãy giụa loạn lên thì vẫn có khả năng bị rơi xuống vách núi. Hôm đó Tiểu Băng liên tục ném cho anh những ánh mắt cảm kích, sau này cô còn thật thà thổ lộ, chính từ giây phút ấy, cô đã có ý nghĩ lấy thân báo đáp.
Có lẽ hôm nay không phải cuối tuần, cũng không phải ngày lễ nên chỗ cưỡi ngựa chụp ảnh không có vị khách nào, chủ ngựa buồn thiu đang lật giở một cuốn tạp chí. Đàm Duy bước lên chào, hổi ông ta có nhìn thấy một cô gái trẻ tuổi đi qua đây không.
Chủ ngực nói: “À, có một người, không chụp ảnh, đứng bên vách núi nhìn một lúc, sau đó đi rồi.”
“Đi về phía nào?”
Chủ ngựa chỉ lên đỉnh núi: “Đi lên núi.”
Anh vội vàng đuổi theo hướng mà chủ ngựa đã chỉ, chạy mãi lên đỉnh núi nhưng vẫn không thấy Tiểu Băng đâu. Trên đỉnh núi có một ngôi miếu, khi đó hai người còn rút quẻ, anh rút được một quẻ giấy, trên đó có hình ảnh, không có chú giải, thế là phải bỏ thêm tiền để mời hòa thượng giải quẻ. Trên quẻ anh rút có vẽ một người, một tay cầm cái giỏ, hòa thượng giải nghĩa quẻ này như sau: “Trái cũng khó (giỏ), phải cũng khó (giỏ)”.
(*) “giỏ” và “khó” đồng âm.
Lúc ấy anh cho rằng đây là một quẻ rất cũ, hình như có rất nhiều người rút phải, hơn nữa anh từ nhỏ đã lớn lên ở phương Bắcm sau này vì ba bị điều động công tác nên mới chuyển đến thành phố A, nhưng ngay sau đó lại lên phương Bắc học, vì thế anh cảm thấy “giỏ” và “khó” vỗn dĩ không phải là một âm, nếu trên bức vẽ là một người một tay ôm bé trai thì cách giải quẻ như vậy cũng vẫn được. Lúc đó anh không để ý, nhưng hôm nay mới nghiệm ra quẻ đó rất linh, chẳng phải chính là tình cảnh của anh ngày hôm nay sao?
Tiểu băng hôm ấy rút được thẻ trúc, nhưngg đó lại là quẻ xấu nhất, lẽ ra quẻ rút được sau khi xem xong thì phải để lại về ống quẻ, nhưng Tiểu băng vừa thấy là quẻ xấu nhết liền bẻ gãy rồi vứt đi. “Bẻ nó, ném nó, để sau này nó đỡ đi hại người. Mấy lão hòa thượn này thật đúng là không biết kinh doanh gì hết, chỉ cần viết mấy quẻ tốt thôi, giúp người đi rút quẻ vui vẻ, họ càng nhận được nhiều tiền.”
Anh nói: “Em vẫn tin vào mấy thứ này hả? Đó chỉ là thủ đoạn kiếm tiền của đám hòa thượng thôi.”
Tiểu Băng trả lời một cách nghiêm túc: “Những thứ này không thể tin hoàn toàn nhưng cũng không thể không tin, có lẽ rút quẻ không thể tiên đoán được vận mệnh của con người nhưng vẫn có thể ảnh hưởng đến tâm trang, mà ảnh hưởng đến tâm trạng có thể ảnh hưởng đến vận mệnh…”
Hôm nay Đàm Duy lại bước vào ngôi miếu này, anh đoán Tiểu Băng nhất định đã đi qua đây, chưa biết chừng lại giống lần trước rút quẻ thêm lần nữa, nhưng không biết cô rút được quẻ gì, mong là cô ấy rút được một quẻ đại cát, như vậy tâm trạng của cô ấy mới tốt lên được, và sẽ không làm chuyện gì dại dột.
Vài vị hòa thượng cũng tiến lên vây lấy anh, bảo anh rút quẻ nhưng anh chả có lòng dạ nào, cũng chẳng có thời gian để rút quẻ, chỉ hỏi thăm họ về chuyện của Tiểu Băng. Mấy vị hòa thượng đều nói có một cô gái đã đến đây, rút quẻ xong liền đi mất, cô gái đó rút được quả giấy. Anh vội vàng hỏi trên quẻ đó viết gì, một vị hòa thượng nói: “Là một tờ giấy trăng.”
“Thế thầy giải quẻ đó như thế nào?”
“Còn có thể giải thế nào nữa, đương nhiên là “thế gian đều là hư vô”>”
Anh vừa nghe liền hốt hoảng, cuống quýt hỏi: “Cô ấy đi về phía nào?”
“Xuống núi rồi.”
Anh nổi giận: “Đúng là hại chết người… Các thầy không thể chỉ làm quẻ tốt thôi sao?”
Một vị hòa thượng bật cười ha ha. “Rút phải quẻ xấu cũng chớ sợ, chỉ cần cậu chi ít tiền, chúng tôi có thể thay cậu giải trừ.”
Anh đi ra khỏi cửa miếu nhưng không biết Tiểu Băng xuống núi theo con đường nào, trước và sau núi đều có lối đi, anh vừa lên từ phía trước núi, đó là con đường lần trước hai người từng đi qua, nhưng anh không biết Tiểu Băng hôm nay có đi đường khác hay không. Anh quay trở lại hỏi hòa thượng, hòa thượng nói không để ý cô ấy đi đường nào. Anh cảm thấy lựa chọn này vô cùng quan trọng, chưa biết chừng đó chính là con đường sinh mệnh. Nếu anh chọn đúng đường, anh có thể duổi kịp Tiểu băng, còn nếu anh chọn sai đường, tức là anh sẽ đánh mất cô ấy. Đàng tiếc anh không biết thật phân thân, chỉ có thể chọn một con đường.
Anh bỏ ra út tiền nhờ một vị hòa thượng xuống núi theo con đường phía trước, giúp anh tìm Tiểu Băng, còn dặn vị hòa thượng đó nếu nhìn thấy cô ấy, hãy nhắn với cô ấy rằng, chồng cô đang lo lắng đi tìm cô, dù có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa, chồng cô sẽ vẫn mãi yêu cô, chỉ yêu một mình cô, vĩnh viễn ở bên cô. Anh dặn vị hòa thượng đó dẫn Tiểu Băng đến ngôi miếu đợi, nếu anh xuống núi mà không tìm thấy cô, anh sẽ quay lại miếu xem hòa thượng có tìm được cô hay không.
Mấy vị hòa thượng dường như cả động trước tấm chân tình của anh, họ cười hì hì, sau đó lại líu ríu chuyện tiền nong. Anh thúc giục: “Mau đi đi, cứu một mạng người còn hơn xây bảy tầng tháp.”
Anh và một vị hòa thượng chi hai đường xuống núi, anh chọn đi lối sau núi, bởi mới nãy anh lên núi theo con đường phía trước thì không thấy Tiểu băng. Biết đâu Tiểu Băng tới ngọn núi này không phải để tìm đến cái chết, mà là để cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, nếu vậy cô ấy có thể lên núi từ phía trước, còn xuống núi theo phía sau, chứng tỏ cô ấy đã đoạn tuyệt với thuở trước, từ nay sẽ phải đi một con đường mới.
Anh đi được một đoạn ại bắt đầu hối hận vì đã nhờ gã hòa thượng kia đi tìm Tiểu băng, nếu tên đó là một kẻ háo sắc thì sao? Lúc anh đang do dự xem có nên quay lại gọi gã hòa thượng kia không thì trông thấy cái cây đằng trước treo một đoạn ruy băng màu hồng. Anh vội vàng chạy đến, bắt lấy dải ruy băng rồi ngắm nghía một hồi, dường như đó chính là đoạn ruy băng mà Tiểu Băng dùng để buộc chiếc hộp giấy kia, anh biết Tiểu Băng nhất định đã xuống núi theo con đường này.
Vấn đề là cô ấy để lại dải ruy băng đó ở đây là có ý gì? Là đang chỉ đường cho anh hay là đang chôn cất quá khứ? Đến khi tất cả đồ vật trong chiếc hộp được chôn cát xong xuôi thì…?
Anh bắt đầu hét to: “Tiểu Băng… Tiểu Băng…”
Cả ngọn núi như thể chỉ có một mình anh, bốn phía đều truyền đến tiếng vọng mênh mang: “Tiểu Băng… Tiểu Băng…”
Anh sởn gai ốc, một mình Tiểu Băng đi giữa ngọn núi như vậy, cô ấy không sợ ư? Hay là cô ấy đã coi sống chết nhẹ như lông hồng? Anh vừa đi vừa gọi khản cả giọng, nước mắt trào ra tự lúc nào mà anh không hề biết, mãi đến khi đôi mắt mờ nhòe, nhìn không rõ đường nữa mới phát hiện mình đã rơi lệ. Anh vừa dùng mu bàn tay lau nước mắt vừa tiếp tục xuống núi, vừa đi vừa gọi, thầm nghĩ nếu hôm nay có thể tìm thấy Tiểu Băng vẫn còn sống, dù là ai anh cũng không cần, chỉ cần Tiểu Băng, đời này kiếp này sẽ nghe theo cô hết, không bao giờ làm cô đau lòng vì bất cứ chuyện gì nữa.
Anh vừa đuổi theo vừa gọi to, đến tận khi xuống chân núi vẫn không nhìn thấy Tiểu Băng. Anh đành phải lên núi một lần nữa, xem vị hòa thượng kia có tìm thấy cô không, có dẫn cô lên miếu đợi anh không? Anh giận Tiểu Băng quá liều lĩnh, một mình chạy đến ngọn núi này, nếu là cuối tuần hoặc ngày lễ, có không ít người lên núi dạo chơi, may ra còn an toàn hơn một chút, nhưng hôm nay trên núi gần như chẳng có một bóng người, một mình cô chạy đến đây, nếu xảy ra chuyện thì phải làm thế nào? Hôm nay trở về nhất định phải dạy cho cô một bài học nhớ đời, để sau này không dám chạy loạn khắp nơi như vậy nữa. Nhưng anh lại nghĩ có lẽ chẳng còn cơ hội dạy bảo như vậy, hơn nữa một người có lá gan nhỏ như Tiểu Băng lại dám một mình chạy lên núi, nhất định là đã hạ quyết tâm, đánh cược hết thảy, không còn bận tâm đến sống chết.
Đến khi leo lên đỉnh núi một lần nữa thì anh đã mệt đến mức eo mỏi lưng nhức, dạ dày cũng bắt đầu đau dữ dội, lâu lắm rồi không luyện tập, hơn nữa trong lòng lại nóng như lửa đốt, trưa nay ăn cơm cũng chẳng ăn được mấy, cảm giác như sức cùng lực kiệt, chỉ muốn ngã ra đất mà chết, ném hết mọi phiền não lên chín tầng mây.
Nhưng anh không dám chậm trễ, vội vàng hỏi hòa thượng trong miếu đã tìm thấy Tiểu băng chưa, vị hòa thượng khi nãy giúp anh tìm Tiểu Băng đã quay trở lại, kể là một mạch xuống dưới chân núi nhưng không trông thấy cô ấy.
Trên tờ giấy đó anh bày tỏ tình yêu của mình với Tiểu Băng một cách trần trụi, viết đầy những câu kiểu như “cả đời này chỉ yêu một mình em”, “suốt đời không thay đổi”, “không có em anh sẽ không thể sống được” … Nếu là bình thường, đao có kề bên cổ anh cũng không viết ra được những câu sến súa như vậy, nhưng hôm nay không giống mọi khi, chỉ cần có thể giữ Tiểu Băng ở lại, có phải viết những câu sến súa đó anh cũng viết được, vả lại những lời đó đều xuất phát từ tận đáy lòng, sến chỗ nào chứ?
Anh lại xuống núi. Trời đã ngả về tối, mặt trời đã nấp phía sau ngọn núi, chỉ còn sót lại một vệt tà dương, nhuốm lên nơi chân trời xa xôi kia một màu đỏ quạch như máu. Anh không biết vì sao, chỉ cảm thấy đây là một điềm xấu, đoạn bắt đầu vừa chạy vừa gọi, cả núi chỉ nghe thấy giọng nói của anh: “Tiểu Băng… Tiểu Băng…”