Chuyến đi săn này, hoàng thân quốc thích, văn võ bá quan đều đi theo hộ tống, gia quyến thê nhi đều được sắp xếp ở lại bên ngoài hành cung hoặc gần đó. Tin tức lương đệ của thái tử có thai mau chóng lan khắp hành cung. Chỉ trong chốc lát, các vị phu nhân ngoài cung đã xếp thành hàng dài xin được cầu kiến.
Kỳ Hi đi theo Thanh La tặng lễ vật, lúc trở về liền nói liên thanh: “Cẩm Tú Hiên náo nhiệt lắm, bệ hạ và thái tử điện hạ đều ở trong phòng, nô tài và Thanh La tỷ tỷ đem lễ vật giao cho Thúy Diên tỷ tỷ bên cạnh lượng đệ, nô tài nhìn thấy lễ vật trong điện chất thành đống!”
Thấy Thanh La chuẩn bị dạy nỗ nó, ta cười nói: “Kỳ Hi hoạt bát một chút cũng tốt, mấy chuyện vặt vãnh này ngươi cũng không cần cấm cản con bé”.
Sau khi Đào Cảnh Thù rời khỏi Dịch U Đình đã xin Quách Cù ân điển, xá tội cho đám tội nô, để họ tiếp tục ở lại trong cung hầu hạ. Ta bảo Thanh La tìm cớ, đem Kỳ Hi tới bên cạnh mình. Kỳ Hi chưa tới mười tuổi, ta để Thanh La hàng ngày dạy dỗ quy củ cho con bé, khi rảnh dỗi ta sẽ dạy con bé viết chữ, đọc sách”.
“Nương nương, mấy ngày trước Kỷ tướng quân có nói nhìn thấy Thẩm…”
Ta cắt ngang lời nàng ấy, nói với Kỳ Hi: “Trên đường tới hành cung ta không bắt ngươi học, còn hôm nay phải tiếp tục luyện chữ” Kỳ Hi chỉ có thể buồn bã mà gật đầu.
Thấy con bé đi khỏi, ta mới mở miệng, “trước khi đến hành cung một ngày, bệ hạ đã nói với ta, Hứa quốc công đã vào cung xin bệ hạ ban hôn”.
Ta vân vê một miếng bánh hoa đào, dân gian có tập tục, khi gả con gái dùng bánh hoa đào để thờ thần mặt trăng, cầu chúc cho hôn sự được suôn sẻ.
“Hứa quốc công là thân cữu cữu của bệ hạ, chỉ có một nữ nhi là Hứa cô nương, bệ hạ hiểu rõ Hứa quốc công yêu con gái như mạng, dẫu sao ban hôn cũng chỉ là chuyện nhỏ, đương nhiên sẽ đồng ý” nếu hai nhà đã định hôn sự, lại được thiên tử ban hôn thì sẽ càng thêm vẻ vang.
Thanh La như vẫn chưa hiểu, hỏi: “Vị Hứa quốc công này liên quan gì tới Thẩm lương đệ?”
Bánh hoa đào đưa vào miệng lập tức tan ra, có điều vị quá ngọt, ta không thích lắm. “Hứa quốc công chẳng liên quan gì tới Thẩm lương đệ cả, nhưng vị lang quân mà Hứa cô nương đó muốn gả là thế tử của Tương Dương Hầu”.
Thanh La “a” lên một tiếng, nhỏ giọng nói: “Vậy Thẩm lương đệ…”.
“Chuyến đi săn này, Hứa quốc công và Tương Dương Hầu đều đi theo hộ tống, có lẽ vài ngày tới, bệ hạ sẽ hạ chỉ ban hôn”.
Thanh La có chút căm phẫn, nói: “Người khắp thành Biện Kinh đều nói vị Chu thế tử này là giống như thần tiên, bây giờ xem ra cũng chỉ là kẻ sớm thay lòng đổi dạ, tiểu nhân bạc tình bạc nghĩa”.
“Thế nhân không thể biết hết mọi thứ, mắt thấy tai nghe còn chưa chắc là sự thật, huống chi là những lời đàm luận không rõ nguồn cơn. Một bàn tay không vỗ nên tiếng, nếu Thẩm Mạn Hoa biết dừng đúng lúc, sau này có lẽ vẫn còn đường lui. Ngươi thấy nàng ta hôm nay, còn có ý quay đầu không?”
Trong kinh thành đồn thổi, Chu Như Hội nhất kiến chung tình, si mê say đắm Thẩm Uyển Hoa, nhưng lại không biết, người mà Chu Thế Hội bí mật tư thông lại là Thẩm đại cô nương Thẩm Mạn Hoa. Để dẫm đạp lên Thẩm Uyển Hoa, Thẩm Mạn Hoa đã cứu Quách Thuấn Minh, nhận được địa vị vinh hoa phú quý, nhưng nàng ta vẫn vương vấn chưa dứt với Chu Thế Hội, Kỷ Minh đã bắt gặp hai người đó bí mặt gặp gỡ ở một con thuyền trên sông.
Nữ nhân trong cung đa số đều sa ngã trong dục vọng, các nàng liên tiếp tung ra vũ khí của bản thân, có người đơn độc chiến đấu, có người thì trở thành con cờ của kẻ khác. Cuối cùng cũng chỉ trở thành một nắm bụi, trở thành chuyện cười cho những kẻ ngoài kia.
So với việc xem kịch thì việc đến thăm con trai của trưởng tỷ quan trọng hơn.
Phía trước của bãi săn hầu hết là bãi đất trống, bên ngoài chưa được bố trí khán đài, các phi tần theo tới đây hoặc ở lại trong phòng của mình g.i.ế.c thời gian, hoặc là tới phía tây hành cung chiêm ngưỡng cảnh sắc mùa thu.
May mắn có chuyện Thẩm Mạn Hoa mang thai thu hút sự chú ý của mọi người, mọi chuyện diễn ra rất thuận lợi, ta và Đào Cảnh Thù sau khi cải trang liền ngồi lên một cỗ xe ngựa.
Xe ngựa không đi quá xa, dừng lại trước một căn nhà trong con ngõ gần đó. Bọn ta xuống khỏi xe ngựa, gõ gõ lên cửa, cảnh cửa lập tức hé ra.
Đi vòng qua một bức tường phù điêu, thấy trên mặt đất xếp một hàng tượng đất sét, một bé trai ba bốn tuổi đang ngồi xổm phía trước, chơi rất vui vẻ.
Kỳ Hi tiến tới ôm đứa trẻ lên, nhìn trái nhìn phải, sau đó mới khóc to, đứa bé cũng bị dọa sợ mà khóc theo. Thị nữ bên cạnh thấy vậy, lập tức tiến lên đón lấy đứa bé dỗ dành.
Đứng cách cậu bé không xa là một người đàn ông mặc áo choàng đen, trên mái tóc thắt bạch ngọc quan, ta quỳ gối hành lễ, nói: “Đa tạ hầu gia”.
Hắn ho hai tiếng, gương mặt vốn xanh xao bỗng chốc đỏ lên. “Phu nhân không cần đa lễ”. Bọn ta đi theo hắn tới chính phòng, sau khi ngồi xuống, tôi tớ đều lui cả. Vành mắt Đào Cảnh Thù đỏ hoe vì khóc, muội ấy đứng lên muốn quỳ xuống.
“Đào lão thái gia tuy không phải thầy của thần, nhưng thần từng được người chỉ bảo qua, ngài ấy có ơn với thần. Quý phi nương nương dốc lòng suy tính, thần cũng chỉ thu dưỡng đứa nhỏ này, không bằng một phần của nương nương”
“Nương nương và hầu gia đều có ơn với Đào gia ta, Cảnh Thù sẽ không quên”
Ta đỡ muội ấy ngồi lên ghế, nhớ lại lời Kỷ Minh nói trong thư, lên tiếng: “Trọng hầu gia muốn nhận A Uyên làm con ư?”
Trọng Nguyên Thanh uống một hớp trà, gật đầu nói: “Trong phủ thần không có nữ quyến, A Uyên được nuôi trong phủ sẽ có tên tuổi chính thức. Thần không thê không thiếp, nên chỉ có thể khiến A Uyên tủi thân, nói thằng bé được sinh ra bởi một nữ tử trong lúc ngao du thiên hạ”.
“Chuyện này… nếu vì Đào gia mà liên lụy tới hôn sự của hầu gia, ta quả thực không yên lòng”
Trọng Nguyên Thanh không để tâm, chỉ cười rồi nói: “Nếu nàng ấy thật lòng yêu ta, không phải ta không gả, thì khó khăn nào cũng sẽ không thể cản bước”.
Đào Cảnh Thù xấu hổ, nói: “Hầu gia đại nghĩa”.
Trọng Nguyên Thanh dứt lời thì ho liên tục không ngừng, ta gọi tôi tớ bên cạnh hắn tiến vào. “Bệnh ho của hầu gia sao vẫn chưa khỏi? Trời đã sang thu, hầu gia nên tự giữ gìn sức khỏe mới phải”.
Trọng Nguyên Thanh cười, “Cảm phiền nương nương lo lắng, ngày nay có A Uyên, ta sẽ chú ý sức khỏe của mình”.
“Lão Tử từng nói, đạo không hư dùng muộn đời không cạn, sâu ngàn trùng sinh ngàn vạn chúng sinh. Thế hệ sau của Trọng gia cũng coi như có người nối dõi”
Đào Cảnh Thù vô cùng cảm kích Trọng Nguyên Thanh, đương nhiên sẽ không phản đối. Sau khi nói chuyện xong, bọn ta chơi cùng A Uyên một lúc, để thằng bé quen mặt, sau đó thấy sắc trời đã dần tối, đành phải đứng lên cáo từ, chỉ nói sau khi trở lại Biện Kinh sẽ lại nghĩ cách gặp mặt A Uyên.
Ta thấy hắn có lời muốn nói, bước chậm hơn Đào Cảnh Thù vài bước, đi đến bức tường phù điêu thì dừng lại, Thanh La thấy vậy thì cũng đi về phía cổng đợi ta.
“Hầu gia có chuyện sao?”
Trọng Nguyên Thanh gật đầu, lại không nhịn được mà ho vài tiếng, “có lẽ người cũng biết chuyện của Trình Quảng Mẫn rồi”.
Ta gật đầu nói phải.
Hắn im lặng một hồi rồi mới nói: “Ngày đó bệ hạ triệu ta và Trình Quảng Mẫn tới điện Hằng Thất, tuy rằng vô cùng tức giận, nhưng cho tới nay vẫn chưa hạ chỉ xử lí”.
Ta ngẫm nghĩ rồi nói: “Tuy hắn đề bạt hàn môn, nhưng ngày còn là thái tử, phủ Phong Thành Hầu là thuộc hạ của hắn, ngày nay tuy không còn thân cận như trước, nhưng rốt cuộc vẫn là người quen xưa, không muốn trừng phạt nghiêm khắc, có lẽ là vì không muốn khiến lão nhân lạnh lòng”.
Trọng Nguyên Thanh lắc đầu, hạ thấp giọng nói: “Gần đây ta nhận được tin, chuyện của Đào Cảnh Lâm có bóng dáng của Trình Quảng Mẫn”.
Chân tay ta tức khắc lạnh cóng, tuy ta không tin chuyện của tỷ phu, nhưng nếu chuyện đó có sự nhúng tay Trình Quảng Mẫn nhúng tay, những việc hắn làm, Quách Cù không thể không biết. Ta chống tay lên tường, tim đập loạn nhịp. Nếu tội danh của Đào gia đều là vu khống, nếu Quách Cù không đơn giản chỉ là g.i.ế.c gà dọa khỉ, mà là cố ý, nếu tất cả mọi chuyện đều do hắn bày mưu tính kế…
Đào gia như vậy, vậy Thiệu gia thì sao? Vậy còn ta và Tư Di? Ta đứng không vững, một tay bám lên tường. Gương mặt Trọng Nguyễn Thanh lộ nét lo lắng, khuyên răn ta: “Bệ hạ đa nghi, người ở trong cung nhất định phải cẩn thận, đừng bộc lộ cảm xúc”.
Ta gật đầu, “đó là đương nhiên, trong lòng ta sẽ có tính toán”.
Tới khi trở về hành cung, Thanh La thấy sắc mặt ta trắng bệch, hai tay lạnh ngắt thì muốn đi mời thái y.
“Không cần, ngủ một giấc sẽ hết thôi”
Mặt trời còn chưa khuất núi, ánh tà dương chiếu xuống trên chiếc bàn nhỏ trước giường, ta thẫn thờ nhìn vào góc phòng, trong lòng có muôn vàn cảm xúc. Lòng tham không đáy vốn là tai họa, nếu đã không thể quay đầu thì không nên lún sâu vào vũng bùn này, ta đã tận tâm tận lực, nếu Thiệu gia vẫn không thay đổi, ta cũng chỉ có thể khuyên nhủ, coi như trả lại ơn nuôi dưỡng.
“Thanh La! Thanh La!” ta vội vã cất tiếng.
“Ngươi mau đi truyền mẫu thân tới gặp ta, mau lên!” Thanh La thấy ta gấp gáp, liền chạy đi như một cơn gió.
“Cẩm Tú Hiên rộn ràng biết bao, Thẩm đại cô nương thật may mắn, vào Đông Cung chưa đầy nửa năm đã có tin vui, suy cho cùng là nha đầu Quý nương không có phúc khí”
Ta không muốn nghiền ngẫm ý chế nhạo trong lời nói của mẫu thân, nghiêm nghị nói: “Mẫu thân là tôn thân hoàng thất, sao lại chỉ thấy sự phú quý của Đông Cung mà không thấy nguy hiểm đang cần kề?”
“Nương nương ở Đông Cung lâu ngày nên ý chí đã hao mòn, cam tâm sống ở điện Ngọc Đường này. Nương nương cáo bệnh, không quan tâm tới hôn sự của Quý nương, cũng bất mãn với việc mà Thiệu gia làm, nương nương muốn cắt đứt tiền đồ của Thiệu gia sao?”
Ta cảm thấy mình như một lữ khách bôn ba đường dài, cả tinh thần và thể xác đều kiệt quệ, nhưng lại không biết hành trình gian khổ này có đáng hay không. “Tai họa thường tích tụ từng chút một, kẻ trí dũng luôn bị những thứ mình say mê gây khốn khó, mãnh tướng Lam Ngọc dưới tay Minh Thái Tổ, bảo vệ biên cương triều Minh trong vài chục năm, trí dũng vô song nhưng lại không biết rút lui đúng lúc, đế vương qua cầu rút ván, dính phải họa sát thân. Những chuyện như vậy còn hiếm thấy sao!”
“Thôi vậy, Thanh La” ta thấy gương mặt không cảm xúc của mẫu thân, “ngươi mau đưa mẫu thân về đi. Những lời hôm nay của ta, nếu mẫu thân có thể nghe ra thì hãy khuyên phụ thân kiềm chế con cháu Thiệu gia lại, còn nếu không muốn nghe, coi như ta chưa nói”.
“Ta mệt rồi”.