Ngày lễ Thất Tịch năm thứ tám ta nhập cung, bảy năm trước ta đều đón lễ trong cung. Cách đó khoảng một tháng, Hoàng thượng hỏi ta muốn đón Thất Tịch thế nào. Ta nghĩ một lúc rồi nói: Hồi nhỏ mẫu thân dẫn ta đi lễ hội đèn hoa rất náo nhiệt, bao năm nay ở trong cung khó mà thấy cảnh tượng đó nữa. Thế là Hoàng thượng ghé tai ta nói nhỏ: Năm nay chúng ta xuất cung, có được không? Ta gật đầu liên hồi, vui mừng đút cho ngài rất nhiều quả nho.
Ngày lễ Thất Tịch năm thứ tám ta nhập cung, lần đầu tiên ta đón lễ cùng phu quân, ta vốn tưởng Hoàng đế đi tuần phải rất uy phong, không ngờ chúng ta lại lén lút trốn khỏi yến tiệc trong cung, từ cửa sau ra ngoài hoàng thành. Lễ hội đèn ở kinh thành lớn hơn trong cung nhiều, pháo hoa rực rỡ, hương trà thoang thoảng, người qua lại tấp nập, đầy ắp tình người.
Kinh thành nổi danh với tứ đại thiên lâu, các mỹ nhân đều xuất thân từ những tòa lâu đó. Trước lầu có những chỗ ngồi sang trọng, tập trung những công tử quyền quý nhất kinh thành. Thiên Lâu mỗi năm đều có hoa khôi, người đoạt ngôi một đêm ngàn vàng. Ta nói với phu quân: Hồi nhỏ ta từng may mắn được chứng kiến phong thái của hoa khôi Thiên Lâu.
Nghe ta nói vậy, mắt ngài liền sáng lên, chờ ta nói tiếp. Ta nói: Hồi nhỏ, Thiên Tử Lâu có một vị danh kỹ, tiếng tăm lẫy lừng, từ thiên cung đến nhân gian, ai cũng biết đến nàng. Ngài hỏi: Là ai? “Hải Vân Cơ.”
Hồng nhan bạc mệnh, Hải Vân Cơ tuy đã qua đời nhiều năm, nhưng ta vừa nhắc đến tên nàng, vẫn có người liếc nhìn ta. Ta nói: Năm xưa Hải Vân thịnh yến, kinh động cả đế quốc, ai cũng khen ngợi thời thịnh thế không bằng. Ngài không có cảm xúc, ta ngạc nhiên: Ngài không biết Hải Vân Cơ? Ngài nhìn lên lầu cao, tựa như đang suy nghĩ: Không biết. Ta nghe vậy, liền hỏi: Vậy ngài đã từng nghe nói về Hải Vân Cơ chưa? Ngài mỉm cười, chạm vào mặt ta, nụ cười có chút mơ hồ, ghé tai ta nói nhỏ: Không chỉ là nghe nói.
Ngay lúc đó ta cảm thấy mình ngu ngốc như heo, nghĩ lại thời hoàng kim của Hải Vân chỉ trong mười năm, khi đó ngài cũng là thiếu niên, làm sao không ngưỡng mộ Hải Vân Cơ? Một cơn giận vô cớ bùng lên trong lòng, không biết lấy đâu ra dũng khí, ta đứng dậy đi ra ngoài, ngài cười nắm lấy tay ta, nói nhỏ bên tai: Phu nhân đây là muốn phạm thượng sao?
Ta nói: Chẳng lẽ phu quân còn muốn xử tội ta? Ngài nói: Phạt nàng tối nay hầu hạ phu quân. A, đồ háo sắc
Ta thèm kẹo hồ lô bên bờ sông, ta nhào vào lòng phu quân kêu ngài mua. Sau khi ngài đi, ta đứng trước cửa hàng phấn son chọn phấn.
Đột nhiên, có cảm giác như vai bị vỗ nhẹ bằng cây quạt xếp, ta quay đầu lại, là một thiếu niên tuấn tú sáng ngời. Chàng chào ta, nói: Ta là Tiết Thao, người Lâm An, xin hỏi quý danh tiểu nương tử, đã có chồng chưa? Ta ngớ người, từ từ nhớ lại lời mẫu thân từng nói: Lễ Thất Tịch không cần câu nệ lễ nghĩa, nếu gặp ý trung nhân, cứ mạnh dạn một chút.
Hai tay ta xoắn lấy khăn thêu, cũng cảm khái, nếu khi xưa ta không nhập cung, chắc hẳn cũng có thể nếm trải tình cảm phu thê bình thường. Thiếu niên thấy ta không nói, liền hỏi tiếp: Tiểu nương tử có nghe thấy không? Ta ngẩng đầu định nói lời từ chối, bất ngờ bị kéo vào một vòng tay quen thuộc, giọng nói của ngài vang lên trên đầu ta: Đừng quấy rầy thê tử ta.
Ngài kéo ta đi rất nhanh, vì chuyện vừa rồi, ngài giận suốt một lúc. Chúng ta ngồi trong rạp hát, ngài mặt lạnh, không nhìn ta, ánh mắt cũng không nhìn lên sân khấu. Ta ăn kẹo hồ lô, trong lòng tính toán cách chọc cười bình dấm chua. Trên sân khấu con hát đang diễn vở kịch phu thê, đến đoạn “ân ái hai bên khó vẹn toàn.” Ta giả vờ thất vọng, thở dài một hơi. Không ngoài dự đoán, ngài quay đầu nhìn ta hỏi: Sao vậy? Ta lắc đầu, giả vờ thất vọng.
Ngài liền ôm chặt lấy ta, ánh mắt tràn đầy tình cảm. Ta nói: Kịch nói nam nhân đa tình, tam thê tứ thiếp, nhưng ngài có ba ngàn phi tần trong hậu cung, không kể lớn nhỏ đều là của ngài, ta vừa ghen tị vừa buồn. Ngài cười, hỏi ta: Ghen tị cái gì, buồn cái gì? Ta tựa đầu vào ngực ngài, khẽ nói: Ghen tị vì phu quân có vườn hoa, buồn vì ta chỉ là một trong số đó.
Đêm khuya, ngài ôm ta lên Xuân Giang Hoa Nguyệt Lầu, ánh trăng trong trẻo như ngọc lan, ánh bạc phủ khắp Tây Lâu. Ngài ôm ta vào lòng, nhẹ nhàng nói: Minh nguyệt tế thiên nhai. Ta gật đầu, lại nói: Nguyệt thị cố hương minh. Ngài đặt cằm lên vai ta, hỏi: Muốn về Cô Tô không? Ta lắc đầu: Phu quân ở đâu, ta ở đó.
*Minh nguyệt tế thiên nhai (明月照天涯) có nghĩa là "Trăng sáng chiếu đến chân trời." Đây là một câu thơ thường được dùng để miêu tả cảnh tượng trăng sáng chiếu rọi khắp nơi, mang lại ánh sáng và sự tĩnh lặng cho cả bầu trời và mặt đất.
*Nguyệt thị cố hương minh (月是故乡明) có nghĩa là "Trăng ở quê nhà sáng hơn." Câu này diễn tả tình cảm sâu nặng với quê hương, thể hiện rằng dù đi đâu xa, ánh trăng ở quê nhà luôn là đẹp nhất, sáng nhất trong lòng người.
Thời khắc trước khi rời khỏi chốn thị phường, ta và ngài nắm tay nhìn lại kinh thành phồn hoa lần cuối rồi bước vào hoàng cung uy nghiêm. Khi bước chân vào hoàng cung, ta lẳng lặng buông tay ngài, từ đây, ngài là vua, ta là thần.