Đại Đường Song Long Truyện

Chương 391: Trường An ngộ tiên




Bước vào đại sảnh chính của Lục Phúc đổ trường, Từ Tử Lăng lập tức hiểu rõ vì sao Lôi Cửu Chỉ có thể từ phong cách bố cục của đổ trường mà nhận ra đổ trường đó thuộc hệ thống của Hương gia hay không.



Thoạt nhìn qua, bố cục nơi này không giống với kỹ viện kết hợp đổ trường nổi danh của Hương gia tại Bành Thành. Thế nhưng hình không giống mà thần thì không sai khác vào đâu được.



Trước tiên từ bàn, dụng cụ đánh bạc, tới đồ đạc trần thiết trong đổ trường, đều là thứ hoa lệ tinh tế.



Kế đó, số bàn đánh bạc trong đại sảnh chính được bố trí theo ngũ hành trận pháp, vừa đúng hai mươi lăm bàn, giống y như tại đổ trường ở Bành Thành của Hương gia.



Thứ ba, cũng là điều dễ thấy nhất, ở đây có nữ tử thị hầu, lại đều là mỹ nữ trẻ tuổi xinh đẹp. Y phục tuy không trang trọng nhưng đều được thiết kế rất tinh tế, đem hết những đường cong làm động lòng người trên cơ thể họ bộc lộ ra, lại cố tình hở một khoảng lớn ở ngực và tay để mê hoặc người ta.



Lò sưởi trong sảnh đường chính lửa cháy rất đượm, khiến cho cả gian đại sảnh biến thành một thế giới ôn nhu ấm áp, so với cảnh trời đất lạnh lẽo bên ngoài thật khác xa. Đại sảnh đường tràn ngập tân khách, huyên náo rầm trời, lại càng tăng thêm không khí nhiệt náo như mê như say, khiến người ta mụ mị cả đầu óc.



Từ Tử Lăng dừng lại một chút. Cảm thấy không có ai theo dõi, gã mới từ từ dạo quanh đại sảnh. Đến bàn xúc sắc gã đánh năm ván, thắng bốn thua một. Do đặt nhiều nên nhanh chóng thắng được gần một trăm hai mươi lượng tiền phỉnh.



Theo lời dặn của Lôi Cửu Chỉ, gã thấy trong sảnh đường chính không phải chơi xúc sắc thì là đổ phiên than, bèn đi vào bên trong.



Đến một phòng nhỏ hơn đại sảnh rất nhiều, xem ra chỉ bằng một nửa, thế nhưng lại thông với phòng bên cạnh. Hai phòng này hợp lại, diện tích cũng bằng với sảnh đường chính. Phía đối diện của gian phòng còn có một cáửa, bên trên treo biển đề “Quý tân sảnh”. Lại có một đại hán đứng giữ cửa, rõ ràng không phải ai cũng vào được.



Nội đường là chỗ để chơi bài cửu, cũng có hai mươi lăm bàn, mỗi bàn có bốn, sáu hoặc tám chỗ ngồi. Bàn đánh bạc ở đây chỉ nhỏ bằng một nửa bàn ở ngoại đường. Khách nhân không có chỗ ngồi có thể đứng đặt theo các vị khách đang ngồi đối đổ với nhà cái mà định thắng thua. Vì vậy, mỗi bàn đều chật khách.



Từ Tử Lăng chọn một bàn đông đến mức nước chảy cũng không lọt, chen vào xem nhiệt náo. Đến gần gã mới biết vì sao bàn này lại được hoan nghênh như vậy. Nguyên lai trong các ghế ngồi có một nữ đổ khách thiên kiều bá mỵ. Làm cái cũng là một nữ tử trẻ tuổi xinh đẹp, nhưng so sánh với nàng thì ảm đạm thất sắc, như ngôi sao nhỏ sánh với mặt trăng vậy.



Mỹ nữ đó như hoa, như ngọc, kiều diễm bức nhân, so với Hồng phu nhân còn đẹp hơn một bậc. Cũng giống như Hồng phu nhân, nàng không phải là phụ nữ nhà lành. Thần thái nàng thật phong lưu, mục quang táo bạo, thủ pháp lấy bài, xếp bài thành thục. Nàng đặt cược rất lớn, thỉnh thoảng lại cười lên như tiếng chuông bạc, góp thêm mấy phần khí thế, khiến cho chiếu bạc càng thêm khẩn trương.



Trừ nữ trang gia (nhà cái), năm vị trí còn lại do bốn thanh niên công tử và một hán tử trung niên mập mạp chiếm giữ. Những người khác chỉ đứng ngoài đặt theo mà thôi.



Mục quang mỹ nữ thỉnh thoảng lại quét qua mặt những vị khách vây quanh một lượt. Khi ánh mắt của nàng nhìn đến Từ Tử Lăng, kẻ vốn cao hơn người khác nửa cái đầu, thì cũng chỉ lướt qua gã, sau đó không để ý nữa.



Từ Tử Lăng nhìn vào đống phỉnh của nàng, biết nàng đã thắng rất nhiều. Lại nhìn nữ tử làm cái trán toát mồ hôi lạnh, cũng biết thị đã thua tới mức hoảng hồn rồi.



Phát bài.



Nhà cái dùng thủ thuật đẹp mắt đem những quân bài cửu xếp lại, cứ hai quân một tổ, tiếp đó lại đổ xúc xắc quyết định xem ai bốc bài đầu tiên.



Bài cửu gồm ba loại đổ pháp là Chính, Đại và Tiểu. Chính bài cửu dành cho từ hai đến bốn người chơi, mỗi người bốc sáu quân bài, nhà cái bốc bảy quân và được đánh đầu tiên. Sau khi đánh ra thì các khách chơi ở các vị trí khác lần lượt theo thứ tự mò bài, xuất bài, lấy bài, chỉ cần trong tay các quân bài đều thành đôi có màu sắc điểm số giống nhau và thêm một con bài lẻ thì có thể hô lên một tiếng “tới”, rồi lật bài đắc thắng.



Đại bài cửu thì bốn quân bài là một tổ, lại chia thành hai cặp để định thắng thua bằng cách xếp thành đôi, hay dựa vào điểm số. Đôi thì xếp theo thứ tự Thiên, Địa, Nhân và Văn Tử, Vũ Tử.



Tiểu bài cửu là thường thấy nhất ở các đổ trường vì nhiều người có thể đánh cùng một lúc. Khi chơi chỉ chia hai quân bài thành một tổ mà định thắng thua, cách tính giống Đại bài cửu chỉ là thiếu đi một cặp mà thôi.



Lúc bấy giờ trên bàn đang đánh Đại bài cửu, mỗi người trên tay cầm bốn quân bài.



Lần này mỹ nữ đó dường như không bốc được bài tốt, chỉ thấy nàng nhìn một cái lập tức chân mày chau lại, thần tình vẫn mỹ lệ khả ái, tràn đầy vẻ phong tình khiến người say mê.



Nàng đột nhiên cười rộ lên một tràng, thân hình rung động như cành đào trước gió, khiến chúng nhân ngẩn ra mà nhìn, ý loạn tình mê. Ngọc thủ lật qua, bốn quân bài đều ngửa lên. Thì ra là một đôi nhân ngũ và một đôi nhân lục.



Đến phiên nhà cái lật bài thì các con bạc thẩy đều hoan hô. Nguyên lai bài của nhà cái không có đôi nào, toàn quân thua sạch.



Từ Tử Lăng thầm nghĩ, nếu muốn hiển lộ bản lĩnh thì lúc này cần đứng ra làm cái. Thế nhưng cách làm phô trương như vậy không thích hợp với thân phận con bạc mà gã đang đóng giả. Gã bèn bỏ sang bàn khác.



Bàn này đang đánh Tiểu bài cửu. Nhà cái thật cứng tay, những kẻ thua bạc nổi cáu rời bàn không ngớt. Từ Tử Lăng nhân cơ hội ngồi vào, trước sau thua hai ván, mất hơn hai mươi lượng.



Đến ván thứ ba, gã đặt năm trăm lượng, lập tức người người trố mắt. Nữ trang gia cũng trở nên khẩn trương. Ra tay đặt cược nặng như vậy, dù là ở đổ trường lớn tại Trường An cũng hiếm thấy.



Sau khi quan sát ba ván, Từ Tử Lăng y theo bí pháp mà Lôi Cửu Chỉ truyền thụ, dựa vào trí nhớ hơn người, mục quang sắc bén gấp bội so với người thường và thủ pháp đặc biệt, bất luận nhà cái xào bài thế nào có thể truy tung nhìn ra vị trí của một số quân bài chủ yếu. Chỉ cần có thể tác động đến điểm số của xúc xắc thì gã đã có đến bảy, tám phần thắng.



Chính tại thời điểm đó, gã cảm nhận được tia mắt sắc bén đang nhìn về phía mình của một hán tử trung niên thấp bé. Chỉ cần trông qua bộ dạng nữ tử làm cái đưa mắt liếc hắn tựa như muốn thỉnh thị ý kiến thì biết hắn là người của đổ trường.



Nam nhân vây quanh bàn đột nhiên nhốn nháo cả lên. Thì ra mỹ nữ kiều diễm kia cũng chen qua xem nhiệt náo. Có thêm mỹ nhân đầy vẻ sinh động hoạt bát đứng xem, không khí lập tức đổi khác.





Mục quang mỹ nữ quét qua đống phỉnh đặt cược, sau đó di chuyển đến gương mặt gã. Từ Tử Lăng lại cố tình không để ý đến nàng, bộ dạng như không hề hứng thú với sự có mặt của nàng.



Nữ trang gia vung nhẹ tay, ba con xúc xắc rơi xuống chiếc khay bằng đồng, trước tiên chuyển động rất nhanh, sau đó từ từ chậm lại, biến thành tự xoay tròn.



Từ Tử Lăng tống ra một cỗ Trường Sinh chân khí, xuất phát từ huyệt Dũng Tuyền dưới chân, chạy dọc theo chân bàn đến tận chiếc khay. Dưới gầm trời này, kẻ có chân khí thâm hậu hơn gã không phải không có. Thế nhưng, có thể khống chế chân khí đến cảnh giới người nghe phải kinh hãi như vậy, chỉ e mình Khấu Trọng là so sánh nổi với gã. Trừ phi có đại hành gia đứng cạnh; nếu không, không ai có thể biết được gã đã ngầm động thủ cước bên trong



Xúc sắc cuối cùng cũng dừng lại.



Nhà cái y theo điểm số phát bài.



Song mục Từ Tử Lăng xạ ra thần quang lãnh khốc nhìn vào đôi bài trước mặt. Gã không cầm bài lên xem, cũng không như những con bạc khác, đưa tay lên mặt bàn, “nặn” từng con bài mà xem. Gã tựa hồ như đã nhìn xuyên qua con bài mà biết thật hư.



Nhà cái hiển nhiên đã lấy được bài lớn, phấn chấn tinh thần hô lên:



-Mở bài!



Chúng đổ khách lần lượt mở bài, đều là những đôi bài nhỏ như Địa bát, Nhân lục, Hồng tứ, đều bị đôi Thiên bát của nhà cái ăn hết.



Khi ánh mắt mọi người đổ dồn vào người Từ Tử Lăng, gã ung dung lật bài. Chúng nhân hết thảy đều kinh hãi la lên. Nguyên lai đó là một đôi Chí Tôn. Theo lệ thì nhà cái phải đền gấp đôi.




Trang gia đưa mắt nhìn hán tử trung niên đó cầu trợ, người đó nhỏ giọng nói:



-Đền đi!



Nói xong quay đầu bỏ đi mất.



Từ Tử Lăng đang thu số phỉnh ăn được thì vị mỹ nữ đó hắng giọng nói:



-Ván sau để ta làm cái



Trang gia như được hoàng ân đại xá, lập tức nhường chỗ. Nếu do khách nhân làm cái, đổ trường chỉ thu đầu phí, đặt cược càng lớn tiền thu càng nhiều



Từ Tử Lăng bỗng vươn người đứng dậy. Mỹ nữ vừa ngồi vào ghế làm cái ngạc nhiên nói:



-Không đánh nữa sao?



Từ Tử Lăng nhìn thẳng vào mắt nàng mỉm cười lắc đầu, không nói tiếng nào, bỏ đi. Chúng nhân đồng loạt la lối.



Mỹ nữ hạ giọng mắng:



-Đồ nhát gan!



Từ Tử Lăng dửng dưng đem phỉnh đổi tiền rồi rời khỏi đỗ trường. Gã vừa bước qua ngưỡng cửa của đại sảnh đường thì một đại hán bước đến cung kính nói:



-Vị đại gia này, công tử nhà tôi muốn mời người qua nói vài câu.



Từ Tử Lăng cảm thấy ngạc nhiên, nhìn theo hướng hắn chỉ. Chỉ thấy trên khoảng sân rộng trước cửa đổ trường có một cỗ xe ngựa. Rèm che cửa sổ trên xe được kéo lên, để lộ dung mạo người ngồi bên trong.



Toàn thân Từ Tử Lăng chợt run nhẹ. Gã thở ra một hơi, ngoan ngoãn bước qua, nhẹ giọng nói:



-Công chúa mạnh giỏi! Đã lâu không gặp



Người ngồi trong xe chính là Đông minh công chúa Đơn Uyển Tinh đang cải nam trang. Nàng trầm giọng nói:



-Ngươi đừng nghĩ đến việc giữa đường giữa xá xuất thủ đánh người. Mau lên xe cho ta.



[center]oOo[/ center]




Khấu Trọng vừa tra hồ sơ vừa thuận miệng hỏi thăm hai vị “trợ thủ”.



Bọn họ là người Lưu Chánh Hội phân phó theo giúp Khấu Trọng. Biết Khấu Trọng là đại hồng nhân, được Hoàng thượng và Quý phi xem trọng nên họ không hề cố kỵ điều gì. Khấu Trọng đã hỏi đến, dù là chuyện cũ của Tùy triều, họ cũng biết đến đâu nói hết đến đó. Khấu Trọng nhờ đó tiến thêm một bước trong việc tìm hiểu tình hình lúc Dương Tố còn sống.



Tùy Văn Đế Dương Kiên là một vị đế quân khai quốc có tài năng phi thường, thủ đoạn chính trị cao minh và chiến tích huy hoàng. Thế nhưng ông lại có một khuyết điểm nghiêm trọng, chính là quá đa nghi.



Không biết phải vì sợ người khác thi triển lại kế sách đoạt quốc của ông ta hay không mà các đại thần khai quốc đều bị tội, không được thiện chung. Các công thần như Lưu Phong, Trịnh Dịch, Lương Sĩ Ngạn đều lần lượt bị tru diệt.



Dương Kiên lại hỉ nộ vô thường, thủ đoạn nghiêm khắc, thế nên quần thần gần vua như gần hổ, lúc nào cũng run rẩy sợ sệt, không ngày nào yên



Dương Tố là một trong một số ít các đại thần Tùy triều có được kết cục tốt. Lão toàn lực phù trợ Dương Quảng, phế thái tử Dương Dũng, đăng lên đế vị. Bên trong, có khả năng lão đã sách động Dương Quảng độc chết phụ hoàng Dương Kiên. Đây cũng chính là thủ đoạn tự giữ mạng của lão ta.



Vấn đề ở đây là nếu bảo khố của Dương Tố được Lỗ Diệu Tử sách hoạch kiến lập khi Dương Kiên còn tại vị thì việc này phải vô cùng thần bí để tránh tai mắt của Dương Kiên.



Trong tình huống đó, Dương Tố nhất định không khởi công đào bí đạo xây bảo khố trong các trạch viện mà mình làm chủ. Nếu chẳng may Dương Kiên phát giác, Dương Tố miệng lưỡi thế nào cũng không biện bạch được.



Khấu Trọng dám khẳng định Dương Tố chỉ kiến tạo bảo khố ở những nơi bề ngoài không liên quan gì đến lão.



Dương Kiên hạ lệnh cho Vũ Văn Khải vào năm Khai Hoàng thứ hai khởi công xây thành mới. Chưa đầy hai năm thì thiên nhập tân đô, đại xá thiên hạ, từ đó trong thành không ngừng đại hưng thổ mộc, bỏ cũ xây mới, cho tới tận ngày nay.



Theo lý mà nói, việc đào địa đạo chôn bảo khố nhân lúc xây dựng tân thành là dễ qua mắt người đời nhất, vì tình thế khi đó còn rất hỗn loạn. Tuy nhiên, việc Dương Kiên tru sát đại thần đến năm Khai Hoàng thứ sáu mới bắt đầu, từ vụ giết Lưu Phòng. Dương Tố bấy giờ mới phát sinh cảnh giác, nảy ra ý đồ kiến tạo bảo khố. Như vậy thời gian xây dựng bảo khố là trong khoảng mười tám năm, từ Khai Hoàng năm thứ đến Nhân Thọ năm thứ tư, khi Dương Kiên băng hà.



Có khả năng nhất chính là chín năm về sau. Trong giai đoạn này các khai quốc công thần bị tru sát gần hết, Dương Tố không sợ mới là chuyện lạ.



Điều khiến Khấu Trọng đau đầu là trong khoảng thời gian này, các trạch viện được xây dựng ở vùng phụ cận Dược Mã Kiều lên đến hàng trăm. Đó là còn chưa kể những chỗ được sửa sang mở rộng. Không lẽ gã phải đi từng nhà từng hộ bí mật điều tra?



Đang lúc đầu óc rối như tơ vò thì Lưu Chánh Hội thần sắc ngưng trọng quay về, ngồi xuống cạnh gã, không nói tiếng nào.



Khấu Trọng lo lắng hỏi:



-Chuyện gì vậy?



Lưu Chánh Hội trầm giọng hạ lệnh:



-Hai người các ngươi ra ngoài cho ta.



Hai người thấy y sắc mặt cau có liền vội vã lui ra, tiện tay đóng cửa lại.



Khấu Trọng trong lòng thầm kêu “tới rồi”, dò hỏi:




-Phải chăng Hoàng thượng biết ta ở đây?



Lưu Chánh Hội lắc đầu thở dài.



Khấu Trọng an tâm phần nào, lại chuyển sang lo lắng cho y, nói tiếp:



-Có chuyện gì Lưu đại nhân cứ an tâm nói ra. Không chừng ta có thể xin Nương Nương nghĩ biện pháp giúp ngươi.



Lưu Chánh Hội khẽ run lên, lộ ra thần sắc bất ngờ và cảm động:



-Tiên sinh hiểu lầm rồi. Ta không phải vì bản thân mình mà lo lắng.



Khấu Trọng cảm thấy nhẹ người:



-Vậy là được rồi.



Lưu Chánh Hội lại thở dài, vẻ lo buồn không giảm chút nào. Y than:




-Sắp sang năm mới lại phát sinh chuyện này. Thật không đây! Quả là đánh đố người ta mà.



Khấu Trọng cảm thấy vô cùng hiếu kỳ, bèn lấy thoái làm tiến:



-Nếu không tiện thì Lưu đại nhân không cần nói với ta.



Lưu Chánh Hội đáp:



-Đây cũng không phải chuyện bí mật gì. Rất nhanh thôi, tin tức sẽ truyền đi khắp thành Trường An. Lúc hoàng thượng hạ chỉ, Thái tử điện hạ, Tần Vương, Tề Vương và bọn Bùi Tịch, Phong Đức Di, Trần Vạn Phúc đều có mặt ở đó.



Khấu Trọng thiếu chút nữa là đá y một cái để thúc y nói cho nhanh. Gã nôn nóng hỏi:



-Rốt cuộc là có chuyện gì?



Lưu Chánh Hội từng chữ từng chữ chậm rãi nói:



-Hoàng thượng lệnh cho ta phong bế ba cửa Thông Huấn Môn, Thông Minh Môn và Gia Môn.



Khấu Trọng cảm thấy đầu óc mờ mịt:



-Hoàng Thượng muốn phong bế tam môn, chỉ là chuyện nhỏ thôi mà!



Lưu Chánh Hội đáp:



-Tam môn này không phải là ba cửa thường. Thông Huấn Môn chính là thông đạo duy nhất nối Đông cung và Thái Cực cung. Gia Môn và Thông Minh môn nối Dịch đình và Thái Cực cung. Thái tử điện hạ sau này muốn đến Thái Cực Cung thì chỉ có thể từ Thừa Thiên Môn hoặc Huyền Vũ Môn nhập cung.



Giả như Từ Tử Lăng ở đây, gã nhất định sẽ hiểu được dụng ý của Lý Uyên chính là hạn chế số thông đạo ra vào chỉ còn hai cửa lớn, nhằm bảo đảm cho việc an toàn và phòng thủ trở nên vững chắc hơn.



Khấu Trọng nhất thời vẫn chưa hiểu được động cơ của Lý Uyên, ngẩn ra hỏi:



-Hoàng Thượng muốn tăng cường khống chế với các thông đạo ra vào tự nhiên có đạo lý của người. Lưu đại nhân sao lại lo lắng như vậy?



Lưu Chánh Hội cười khổ đáp:



-Sự thật chuyện này không thể kể cho tiên sinh được.



Khấu Trọng



-Tiểu nhân đã nghe qua việc tranh đấu của Thái tử điện hạ và Tần Vương, thế nên không có vấn đề gì gọi là nên biết hoặc không nên biết cả.



Lưu Chánh Hội lại cười khổ:



-Hành động này của Hoàng Thượng thật khiến người cảm thấy như lửa cháy ngang mày vậy. Lúc hoàng thượng ban lệnh, không ai dám nói câu nào cả. Hiện tại, xin thứ cho tiểu đệ thất bồi. Tiểu đệ phải lập tức đi an bài mọi việc, nếu không sau Tết sẽ không kịp phụng mệnh. Tiên sinh xin lượng thứ.



Khấu Trọng bỏ các tư liệu đã sao chép vào trong bọc, vươn người đứng dậy nói:



-Lưu đại nhân không cần tiễn, ta đây như ngựa già đã quen đường, tự biết làm sao rời khỏi.



Lưu Chánh Hội tỏ vẻ bối rối đáp:



-Đợi tiểu đệ làm xong việc mà Hoàng Thượng giao phó, sẽ lại cùng tiên sinh uống rượu, bàn luận chuyện phát triển kiến trúc cổ kim.



Khấu Trọng trong lòng thầm nghĩ “không cần đâu”, rồi vội vã bỏ đi.



Mưa tuyết vẫn rơi mãi chưa tạnh. Nhiệt tình và hy vọng tầm bảo của Khấu Trọng cũng tựa như băng tuyết lạnh thấu xương. Thật chẳng còn chút tín tâm và cũng chẳng có biện pháp khả thi nào.



(